05/09/2025

Tôi Đi Học-Thanh Tịnh

▬▬▬▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬▬▬▬
----Tôi Đi Học-Thanh Tịnh-------
▬▬▬▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬▬▬▬

🌷Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quí và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa.
Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.
Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chìa ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước có sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
- Mẹ đưa bút thước cho con cầm.
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
- Thôi để mẹ nắm cũng được.
Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước.
Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.
Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa.
Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.
Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.
Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.
Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nửa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.
Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.
Ông Đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:
- Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa ? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ ran của phụ huynh đáp lại.)
Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.
Ông Đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:
- Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.
Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cánh tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi.
Ông Đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.
- Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.
Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có những hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.
Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật.
Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.
Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi.
Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật.
Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc:
Bài tập viết : Tôi đi học !
THANH TỊNH

Tựu trường - Huy Cận--

══════---------══════

--------"Tựu trường" - Huy Cận----------
══════---------══════

Giờ náo nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương
Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Rương nhỏ nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Sắp hạnh phúc như chương trình lớp học
Buổi chiều đầu, họ tìm bạn kết duyên
Trong sân trường hướng dạo giữa Đào viên
Quần áo trắng đẹp như lòng mới mẻ.
Chân non dại ngập ngừng từng bước nhẹ
Tim run run trăm tình cảm rụt rè
Tuổi mười lăm gấp sách lại, đứng nghe
Lòng mới mở giữa tay đời ấm áp.
Tựu trường đó, lòng tôi vừa bắt gặp
Nỗi xôn xao thầm lặng ở trong rương
Của chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Mắt tin cậy và tóc vừa dưỡng rẽ
Người bạn nhỏ! Cho lòng tôi theo ghé
Không nỗi gì có thể vuốt ve hơn
Đêm tựu trường mùi cửa sổ mới sơn
Tủ mới đánh và lòng trai thơm ngát





Hơn một nửa thế kỷ đã trôi qua. Khi làm bài thơ này tác giả tóc hãy còn xanh lắm, đến bây giờ dù đã bước quá sang tuổi "xưa nay hiếm" nhưng chắc hẳn những giờ phút xôn xao của ngày tựu trường năm ấy vẫn còn nguyên những kỷ niệm của tuổi mười lăm.
"Tựu trường", cả bài thơ là cả một mạch cảm xúc náo nức của tuổi học trò trong ngày đầu nhập học. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, không suy tư, không triết lý nhưng lại có sức liên tưởng và sức gợi mở rất rộng. Đọc bài thơ, ta cảm được nỗi niềm hạnh phúc và phấn kích của những chàng trai trẻ tuổi mười lăm trước buổi khai trường. Chính họ đã thốt lên nỗi niềm đó với những vật là vô tri nhất: "Giờ náo nức của một thời trẻ dại/ Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương"... Vâng, dù ngói nâu, tường trắng, cửa gương.. những vật tưởng chừng như vô tri đó, bắt đầu của ngày tựu trường này sẽ trở thành một phần trong ký ức của tuổi học trò. Những hình ảnh về chúng chắc hẳn sẽ ở lại mãi mãi giữa tâm hồn của những chàng trai tuổi mười lăm thuở ấy. Nhà thơ Huy Cận đã từng hồi ức về bài thơ "Tựu trường" như thế này:
"Bài thơ Tựu trường tôi làm lúc 19 tuổi, lúc đó tôi đang học năm thứ hai ban tú tài Trường Quốc Học Huế (1938), bài thơ là khoảng hồi ức nhớ lại tuổi mười lăm của mình trong ngày tựu trường. Tôi rất tha thiết với đời sống học sinh nội trú của Trường Quốc Học. Ngày khai trường, không khí chung náo nức và mới mẻ. Tủ đựng quần áo, sách vở của học sinh được đánh vecni lại. Trường được sơn cửa, quét vôi, toả hương dễ chịu. Sân trường rất rộng, những bụi tre ngà, những cây phượng vĩ rung rinh như chào đón chúng tôi. Tôi nhớ đến tình bạn của chúng tôi trong trường. Một tình bạn rất lý tưởng, thơ mộng. Tình bạn học, tình văn chương, tình đời... chắp cánh cho những ước mơ. Tựu trường nói đến tình bạn học, tuổi thơ non dại, mở ra một cuộc đời lý tưởng trong nhịp điệu thơ như bước chân của người học trò..."
Vậy đó, những tâm hồn thơm tho lung linh ánh ngọc. Trước một năm học mới và trước cả ngưỡng cửa cuộc đời, những người học trò ấy hoàn toàn thanh thản trong tâm thế tự tin ngây ngất và trong nỗi xôn xao thầm lặng của tuổi mười lăm:
Tựu trường đó, lòng tôi vừa bắt gặp
Nỗi xôn xao thầm lặng ở trong rương
Của chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Mắt tin cậy và tóc vừa dưỡng rẽ
Hơn sáu mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Tựu trường ra đời, thế mà những chút tình cảm rụt rè của những con tim run run thuở ấy, đang giúp những người đọc qua nhiều thế hệ, sống lại với những kỷ niệm của riêng mình. Và phải chăng, chính vì lẽ đó mà bài thơ Tựu trường của nhà thơ Huy Cận sẽ còn luôn sống mãi với thời gian?!.
(Vân Anh- Báo TTHuế )
Painting's Xuan Loc


29/08/2025

 Cuộc đời trắc trở của hai hoàng hậu đầu tiên và cuối cùng triều Nguyễn 


 Thừa Thiên Cao hoàng hậu hơn 20 năm theo vua Gia Long bôn ba khắp nơi gây dựng cơ đồ,
còn Nam Phương hoàng hậu sống không hạnh phúc, chết trong cô đơn nơi đất khách quê người.

Triều Nguyễn tồn tại 143 năm, qua 13 đời vua trị vì nhưng chỉ có hai vị hoàng hậu đầu tiên và cuối cùng được sắc phong khi còn sống. Đó là Thừa Thiên Cao hoàng hậu Tống Thị Lan, vợ vua Gia Long và Nam Phương hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Lan, vợ vua Bảo Đại. Cuộc đời hai hoàng hậu cùng tên Lan có nhiều trắc trở. Cho đến nay, sử sách cũng chưa lý giải vì sao từ thời vua Minh Mạng trở đi đều để trống ngôi vị chủ hậu cung, chỉ ban tước cao nhất là hoàng quý phi, giúp hoàng thái hậu trông coi lương thực, chỉnh tề công việc bên trong. . . .  Xem tiếp
_______________________________________________________________________

Bộ phim tài liệu nhiều tập về sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Việt Nam Cộng Hòa.

 Bộ phim tài liệu nhiều tập về sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của Việt Nam Cộng Hòa. G
ồm 12 Tập


Hơn hai thế kỷ nhộn nhịp Chợ Lớn – Sài Gòn

Hơn hai thế kỷ nhộn nhịp Chợ Lớn – Sài Gòn

 

 Chợ Lớn – quận 5 được coi là huyết mạnh của Sài Gòn, là nơi cung cấp hàng hóa, nhu yếu phẩm hàng ngày của người dân. Chợ An Đông, chợ Kim Biên, chợ Bình Tây, chợ vải Soái Kình Lâm, thương xá Đại Quanh Minh, phố thuốc bắc Hải Thượng Lãn Ông… nổi tiếng không chỉ ở Sài Gòn mà khắp vùng châu thổ Cửu Long đều biết đến.

Xem tiếp



28/08/2025

Vòng quanh châu Á - Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ

 Vòng quanh châu Á - Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ

 Bìa sách Vòng quanh châu Á - Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Hoàng Thị Hằng và Bùi Thị Hệ dịch, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, AlphaBooks và NXB Dân Trí ấn hành, tháng 7.2024

Xem tiếp


 Vòng quanh châu Á - Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ

Bốn năm (giai đoạn 1894-1898) là khoảng thời gian dài đằng đẵng mà Marcel Monnier dành để thực hiện chuyến đi vòng quanh châu Á, trong đó ba mươi tháng dùng để đi khắp đất nước Trung Hoa.
Sự tình cờ, theo Monnier, đóng một vai trò quan trọng khiến ông kéo dài chuyến đi so với dự kiến ban đầu (hai năm) và đã đưa đẩy ông ghé thăm Viễn Đông: Cao Miên, Đại Nam (nay là Việt Nam), rồi Nhật Bản, Triều Tiên… Bốn năm với ông như một cuộc lưu đày!

Lắng Lòng


Có những khoảnh khắc, ta chẳng cần gì hơn ngoài một chút lặng im. Không tiếng nói, không xô bồ, không vội vã. Chỉ có nhịp thở mình hòa vào nhịp thở của đất trời, để thấy lòng nhẹ như một chiếc lá khô vừa rơi xuống mặt hồ, khẽ chạm rồi tan loãng vào khoảng lặng mênh mông.

Trong tĩnh không ấy, ta như nghe rõ hơn tiếng thì thầm của chính mình. Những lo toan thường nhật bỗng trở nên bé nhỏ, những ồn ào từng khiến ta mệt mỏi cũng dần tan biến. Còn lại, chỉ là sự hiện hữu giản đơn của giọt nắng vàng, của mùi gió mới, của bóng mây trôi thản nhiên qua bầu trời.

Lắng lòng một chút, để nhận ra rằng đời sống vốn dịu dàng. Ta không cần chạy mãi, không cần níu giữ tất cả. Chỉ cần thả mình trong an yên, để lòng được rửa trôi bụi bặm, để yêu thương được hồi sinh.
Và rồi, trong tĩnh không, ta tìm thấy chính mình – một tâm hồn thanh thản, biết ơn từng phút giây tồn tại.                                                    

Vì sao xứ Đàng Trong từng được gọi là Quinam và Quảng Nam quốc?

 Vì sao xứ Đàng Trong từng được gọi là Quinam và Quảng Nam quốc?

 Vì sao xứ Đàng Trong từng được gọi là Quinam và Quảng Nam quốc?

Trong các tư liệu của phương Tây về Đàng Trong thường có những từ “king, roi” hoặc địa danh Quinam, Gan Nan… khiến nhiều người rất tò mò.
Xứ Đàng Trong có 5 phủ, theo tác giả Cristoforo Borri -một trong những giáo sĩ dòng Tên đầu tiên đến Đàng Trong (Đại Việt) thời Chúa sãi Nguyễn Phúc Nguyên và lưu trú ở đây một thời gian dài

Xem tiếp

 

Chuyện Chợ Lớn Hội Kín Người Hoa - Nghĩa Hòa Đoàn

 Chuyện Chợ Lớn : Hội Kín Người Hoa - Nghĩa Hòa Đoàn

Nghĩa Hòa Đoàn 義和團運動 “phong trào vì xã hội công bằng và hòa hợp - 义和团运动”, tổ chức hành động dưới mục đích "phù Thanh diệt Dương" nghĩa là "ủng hộ Thanh triều, tiêu diệt người Tây"... 

Tổ chức được thành lập tại Trung Quốc trong Cuối đời Thanh (1899 - 1901), trong bối cảnh nhân dân Trung Quốc luôn luôn bị đế quốc nước ngoài bức lột, khiến các cuộc nổi dậy như Nghĩa Hòa Đoàn không ngừng phát triển chống lại liên quân 8 nước gồm Anh, Pháp, Đức, Ý, Mỹ, Nga, Nhật, Áo-Hung.

Xem tiếp

 

Nam kỳ thế kỷ 19 qua ghi chép của người Pháp: Trần Bá Lộc và kênh Tổng đốc

Nam kỳ thế kỷ 19 qua ghi chép của người Pháp: Trần Bá Lộc và kênh Tổng đốc


Trần Bá Lộc (1839 - 1899) được biết đến là phụ tá đắc lực cho thực dân Pháp trong việc đàn áp các phong trào khởi nghĩa của người Việt thập niên 1860 - 1880, bác sĩ Baurac đã gặp ông ta vào những năm cuối đời và có đôi dòng nhận xét về nhân vật này. 

Xem tiếp



 

Dinh Thự Tổng Đốc Trần Bá Lộc


27/08/2025

Địa danh Đồng Ông Cộ ở tỉnh Gia Định xưa

 Địa danh Đồng Ông Cộ ở tỉnh Gia Định xưa


Đồng Ông Cộ là địa danh nổi tiếng và quen thuộc với nhiều người dân Sài Gòn Gia Định. Ngày nay, nếu tới gần chợ Bà Chiểu hỏi về Đồng Ông Cộ, người ta sẽ chỉ về phía đường Bùi Đình Túy. Đó là trung tâm của Đồng Ông Cộ xưa, còn khu vực Đồng Ông Cộ thì khá rộng lớn xung quanh đó bán kính tới hàng chục cây số, chiếm gần hết quận Bình Thạnh ngày nay.
Xem tiếp


 

Tên Đường Phố Sài Gòn Xưa & Nay

Tên Đường Phố Sài Gòn Xưa & Nay

 



 

Để nhớ một thời của Sài Gòn Xưa 

"Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đó người đây luống đoạn trường!".

Xem tiếp



26/08/2025

Cuốn sách "Kỹ thuật của người An Nam

 

Cuốn sách cổ quý giá về “Kỹ thuật của người An Nam”

Cuốn sách "Kỹ thuật của người An Nam" có từ năm 1909 và hiện chỉ có 3 bản tại Việt Nam.
Kỹ thuật của người An Nam (Technique du peuple Annamite hay Mechanics and crafts of the Annamites) là một cuốn sách in theo lối in tranh mộc bản (in một mặt) gồm 348 tờ giấy dó, khổ lớn (62cmx44cm; dày 5,4cm), ghi lại cảnh sinh hoạt, lao động hàng ngày của người Việt Nam ở vùng đồng bằng Bắc Bộ vào đầu thế kỷ XX.

Đời còn vui vì có chút tòm tem

 Đời còn vui vì có chút tòm tem

 Minh họa : Xuân Lộc

Đời còn vui vì có chút tòm tem

 Không biết hai tiếng ‘tòm tem’ xuất hiện trong ngôn ngữ Việt từ bao giờ nhưng cái chuyện tòm tem thì quả là xưa không kém gì quả đất. Tuy nhiên, dù có xưa cách mấy thì tòm tem vẫn không bao giờ cũ, vì loài người còn tồn tại tới ngày hôm nay cũng là nhờ vào ‘tòm tem’. Chính vì thế mà thiên hạ vẫn cứ mãi mãi tòm tem và sẽ còn nói nhiều về chuyện tòm tem.....Xem Thêm


Nhân Vật Lịch Sử ( Tiếp theo ) 03-Dương Kiên

Nhân Vật Lịch Sử ( Tiếp theo ) 03-Dương Kiên 

 

Tùy Văn Đế qua nét vẽ của Diêm Lập Bản, họa sĩ đời nhà Đường




Hoàng đế Đại Tùy
Trị vì 581 – 604
Tiền nhiệm : Thành lập nhà Tùy
Kế nhiệm : Tùy Dạng Đế
Thông tin chung
Thê thiếp : Văn Hiến hoàng hậu Độc Cô Già La
Tên thật : Dương Kiên (楊堅)Niên hiệu
Niên hiệu : Khai Hoàng (开皇; 581 - 600)
Nhân Thọ (仁寿; 601 - 604)
Thụy hiệu : Văn Hoàng đế (文皇帝)
Miếu hiệu : Cao Tổ (高祖)
Triều đại : Nhà Tùy
Thân phụ : Dương Trung
Thân mẫu : Lữ Cổ Đào
Sinh : 21 tháng 7, 541 Mất : 13 tháng 8, 604 (63 tuổi)
Nhân Thọ cung, Trường An, Trung Quốc
An táng :Thái lăng (太陵)
Xem tiếp

Sài Gòn Hoài Niệm- Tờ Chương Trình Phát Thanh Của Đài Tiếng Nói Quân Đội Saigon

Hoài Niệm Về Saigon Xưa
Tờ Chương Trình Phát Thanh Của Đài Tiếng Nói Quân Đội Saigon



Khúc nhạc hiệu mở đầu chương trình phát thanh khuya của Đài Phát Thanh Saigon
vào ngày thứ Ba 31/8/1971



Đã hơn 40 năm . Mỗi lần nghe lại khúc nhạc hiệu này lòng lại xúc động,
mắt lại cay cay, kỷ niệm tràn về, nhớ lại những đêm khuya thanh vắng


Đập cổ kính ra tìm lấy bóng ,
Xếp tàn y lại để dành hơi .

1. Giọng nữ: Cô Nghi Xuân... “Bây giờ là không giờ.”

2. Tiếng đàn thập lục của cụ Bửu Lộc
3. Quốc Ca: ca khúc “Tiếng Gọi Thanh Niên” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
4. Giọng nam: Hồng Phúc  ... “Đây là tiếng nói Nước Việt Nam phát thanh từ Thủ Đô Saigon, truyền thanh trên làn sóng trung bình 345 thước tức là 870 ký lô chu kỳ, từ không giờ (00:00) đến sáu giờ (06:00). Và trên các làn sóng 345 thước, 49 thước, 41 thước, 31 thước và 25 thước. Tức là 870, 6165, 7175, 9620 và 11950 ký lô chu kỳ từ 6 giờ đến 24 giờ trên hệ thống A, Đài Saigon. Kính chào quý thính giả.”
5. Quân nhạc: ca khúc “Việt Nam Hùng Tiến” của nhạc sĩ Thẩm Oánh
6. Giọng nữ cô Nghi Xuân giới thiệu chương trình khuya và sáng từ 00:00 đến 06:00 sáng. 



Bàn chân Giao Chỉ của người Việt: Huyền thoại và sự thật

Có một “huyền thoại” lưu truyền rất rộng rãi về bàn chân Giao Chỉ, với hai ngón cái choãi ra, chạm vào nhau, đó mới là đặc điểm người Việt cổ, còn chúng ta không liên quan gì tới người Việt cổ bởi không còn giữ được đặc điểm đó (!).


















Thật kỳ lạ là cho đến tận bây giờ, “huyền thoại” đó vẫn được lưu truyền rộng rãi, ít được xác thực những thông tin liên quan tới nó. Câu chuyện xoay quanh khái niệm Giao Chỉ này tuy “đơn giản”, nhưng đã gây được ảnh hưởng (tiêu cực) không hề nhỏ tới tâm lý của người Việt, gây ra những hiểu lầm, mặc cảm trong tâm tư, tình cảm của người Việt. Vì lý do đó, và cũng là để “giải ảo” “huyền thoại” này, tôi sẽ thực hiện bài khảo cứu này để tìm hiểu về khái niệm Giao Chỉ và bàn chân giao chỉ, cũng như xét lại tính thiếu thực tế và cơ sở khoa học của nó.

1/ Nguồn gốc hai chữ Giao Chỉ

Vấn đề nguồn gốc chữ Giao Chỉ, hay giải nghĩa của nó liên quan tới ngón chân, không chỉ xuất hiện gần đây, mà đã có từ rất lâu rồi: thế kỷ 8 SCN, Đỗ Hựu, soạn giả của Thông Điển đời Đường, có ghi: “Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái)”. 

Các thông tin về bàn chân Giao Chỉ sau đó được ghi lại với nhiều cách giải nghĩa khác nhau nhưng đều hướng về “chân”:

“Về chữ “chỉ” trong từ ghép “Giao Chỉ”: Khang Hy Tự Điển, Từ Hải ấn hành từ 1947 về trước, Hán Việt Tự Điển của Thùy Chửu đều giảng nghĩa “chỉ” là cái chân. Riêng Hán Việt Tự Điển của Thùy Chửu và Từ Hải ấn hành sau 1950 có ghi chú thêm: sau này cũng gọi “chỉ” là ngón chân.” [3]

“Về Giao Chỉ, Từ Hải ghi: Theo sách Lễ Vương chế, người Man ở phương Nam, xâm trán, giao chỉ. Lại giảng rõ thêm: chỉ là chân vậy. Người Man khi nằm, đầu hướng vào trong, chân hướng ra ngoài, hai chân gác tréo lên nhau nên gọi là giao chỉ.” 

Các học giả Việt Nam sau này đều theo các cách giải nghĩa từ Giao Chỉ trong sách vở Trung Hoa.

Tới thời Pháp thuộc, thông tin về bàn chân Giao Chỉ này còn được “ghi lại” và tuyên truyền bởi người Pháp: vào năm 1868, ông bác sĩ Thorel người Pháp của đoàn thám hiểm Doudart de Lagrée cho rằng “hai ngón chân cái giao nhau là ‘một đặc điểm của giống người An Nam’”, và sau này, các học giả Pháp khác cũng hoạ theo ý kiến đó của ông Thorel. 

Chúng ta có thể thấy ngay là vấn đề này được “ghi lại” bởi những kẻ thù của chúng ta, một trong thời Hán thuộc, còn lại trong thời Pháp thuộc, và hai thời kỳ này chế độ đô hộ ra sức tấn công vào tinh thần dân tộc của người Việt, với mục đích đồng hoá và dễ cai trị hơn, nên nếu là người Việt, đáng lẽ chúng ta phải chất vấn ngay tính xác thực của chúng, bởi họ có đủ động cơ để gắn những mục đích không tốt vào câu chữ của mình. Thế nhưng, chúng ta không hề chất vấn chúng, mà thậm chí còn tán đồng và ủng hộ nữa. Và rồi sau đó thông tin này trở lại, và “ám ảnh” người Việt trong suốt mấy thập kỷ vừa qua, gây không ít hệ luỵ với tinh thần của dân tộc, khiến họ hiểu nhầm về nguồn gốc dân tộc mình, mang trong mình một mặc cảm tự ti về một dân tộc “dị chủng”.

2/ Giao Chỉ là gì?

Về nghĩa của chữ Giao trong Giao Chỉ, Tiến sĩ Nguyễn Việt lý giải: chữ Giao được sử dụng với hàm ý “vùng đất thấp ngập nước ven biển”, được sử dụng đầu tiên trong Sử ký của Tư Mã Thiên. Phải đến tận khi tây Hán thôn tính Nam Việt, thì mới xuất hiện địa danh Giao Chỉ bao gồm các quận hành chính như Thương Ngô, Uất Lâm, Nam Hải, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Tượng Quận, sau đó Giao Chỉ được đổi thành Giao Châu, bao gồm quận Giao Chỉ ở đồng bằng sông Hồng hiện nay. Và Giao trong Giao Chỉ có thể tương đồng với Lạc, có nghĩa là vùng đất thấp ngập, nằm trong cách gọi phân biệt tộc người theo vùng cư trú: cao – thấp, núi – biển, cao khô – thấp ướt, như việc người Việt gọi những người vùng thấp là Việt Rặc (Lạc Việt) và những người Việt vùng cao là Việt Âu. “Chỉ” và “Châu” trong Giao Chỉ, Giao Châu đều cùng nghĩa chỉ địa danh cư trú lớn, tương tự với nghĩa của “vùng”. Và theo Tiến sĩ Nguyễn Việt, suy diễn “chỉ” là ngón chân choạc ra của người Việt là thiếu cơ sở khoa học. 

3/ Và “bàn chân giao chỉ” có cơ sở và căn cứ khoa học nào nào không?

Có hai trường hợp dẫn đến sự biến dị ở ngón chân cái:

a. Dân tộc ta là một dân tộc gốc nông nghiệp, đời sống gắn bó chặt chẽ với ruộng đồng, đôi chân thường xuyên đi chân đất, để làm ruộng cho được tiện lợi, và khi lội bùn, ngón cái phải choãi ra để giữ thăng bằng, tránh bị ngã. Cùng với đó là một chế độ ăn không đủ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt thiếu canxi, khiến cho xương dễ bị biến dạng, nên hai ngón chân cái dễ toẽ ra, hình thành bàn chân “giao chỉ” như bức tranh dưới đây. 

b. Hiện tượng biến dị ở chân: đây là hiện tượng hai ngón chân cái chệch ra ngoài không chỉ có ở Việt Nam, mà còn có ở nhiều nhóm dân tộc khác như Mã Lai, Thái Lan, Trung Hoa, Ả Rập, Melanesia và người Negrito da đen, chỉ khác nhau ở mức độ. Đây không phải là hiện tượng bệnh lý, mà có thể coi là một biến dị lại tổ (variation atavique) do xương mọc không thẳng như bình thường. Hiện tượng này thường sẽ mất sau 1-2 thế hệ. 

Và dù là trường hợp a hay trường hợp b, thì theo PGS Hà Văn Phùng, Viện trưởng Viện khảo cổ học, kiểu ngón chân có dạng giao nhau này đều là do bệnh lý chứ không phải là đặc điểm đặc trưng của người Việt. Các bộ xương Việt cổ thời Đông Sơn hay thời thuộc Hán sau này, đều không có đặc điểm đó, thế nên, chỉ có thể nói một bộ phận nhỏ, hoặc rất nhỏ trong toàn thể dân tộc Việt có đặc điểm đó. Các “bàn chân Giao Chỉ” chỉ trong một thời gian ngắn đã biến mất trong các thế hệ sau, thể hiện rõ tính thiếu căn cứ khoa học của nó.

Vậy nên, chúng ta có thể khẳng định ngay: nói tổ tiên người Việt có ngón chân Giao Chỉ là hoàn toàn không chính xác, và cũng không có cơ sở cả về thực tiễn lẫn khoa học.

4/ Kết luận

Bàn chân Giao Chỉ không chỉ không có căn cứ khoa học, mà lịch sử, ngữ âm cũng đều khác với những gì được diễn giải. Chúng ta nên cẩn trọng hơn khi lưu truyền và đón nhận những thông tin lệch lạc tương tự như thế.

Theo : Lược Sử Việt



Chuyện Xứ Nam Kỳ-Bài 1:Tiểu thuyết chữ Quốc ngữ đầu tiên

 Chuyện Xứ Nam Kỳ

Bài 1:Tiểu thuyết chữ Quốc ngữ đầu tiên

Nguyễn Trọng Quản sinh năm 1865 tại Bà Rịa, mất năm 1911 tại Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh). Ông là nhà giáo, nhà văn, là tác giả của các tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ xuất hiện khá sớm trên văn đàn ở nước ta gồm:
-Thầy Lazaro Phiền (tiểu thuyết – 1887),

-Bốn anh em Chà Và cùng chuyện tầm phào chẳng nên đọc,

-Kim vọng phu truyện. . . .

Thưở nhỏ Nguyễn Trọng Quản ở Sài Gòn là bạn học cùng thời với Trương Vĩnh Ký. Từ năm 1870-1872 Nguyễn Trọng Quản được du học tại Lycée D’Alger, Bắc Phi (thuộc địa của Pháp). Sau đó trở về nước ông làm giáo viên, rồi đảm nhiệm chức Giám đốc các trường sơ học Nam Kỳ tại Sài Gòn (1890-1902).

Với tác phẩm Thầy Lazaro Phiền do nhà xuất bản J.Linage, Linraie E’uteur xuất bản năm 1887, Nguyễn Trọng Quản trở thành nhà văn đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ ở Nam bộ. Nguyễn Trọng Quản viết cuốn sách với mục đích nâng cao vị trí của chữ Quốc ngữ trong quá trình phát triển dân trí ở nước ta vào cuối thế kỷ XIX.

“Ham muốn là dùng lời ăn tiếng nói bình thường của dân chúng mà viết nên truyện nhằm trước tiên quảng bá chữ Quốc ngữ sau đó là tuyên truyền một lối sống lành mạnh, cảnh báo những sai lầm của con người…”.

Tác phẩm Thầy Lazaro Phiền với khoảng 32 trang in nhưng đã có những giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn vào năm 1887, Từ đây nền văn học Việt Nam mở sang một trang mới, chữ Quốc ngữ bắt đầu có chỗ đứng trên văn đàn. Từ đây các tiểu thuyết chương hồi bằng chữ Hán, chữ Nôm dần dần mất chỗ đứng trong dòng văn học Việt Nam vốn ảnh hưởng sâu đậm văn học bác học.

Điều đặc biệt là không gian của tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền được diễn ra tại Bà Rịa – Sài Gòn với thời gian vào cuối kỷ XIX. Đọc tác phẩm này người đọc có thể hình dung được phần nào khung cảnh, đời sống sinh hoạt hằng ngày của nhân dân ở vùng Bà Rịa lúc bấy giờ. Những địa danh quen thuộc của vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu được tác giả thường nhắc đến nhiều lần trong cuốn tiểu thuyết này như làng Phước Lễ, Vũng Tàu, Đất Đỏ, Bà Rịa.

Gia tài văn học Nguyễn Trọng Quản để lại không nhiều nhưng ông là nhà văn tiên phong khai phá, người mở đường đặt viên gạch đầu tiên cho ngôi nhà văn học Việt Nam thời hiện đại từ cuối thế kỷ XIX. Trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của tác giả Nguyễn Q.Thắng – Nguyễn Bá Thế, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh trang 986 có nhận xét về nhà văn Nguyễn Trọng Quản như sau:

”Là người Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết theo quan điểm phương Tây… vạch cho lịch trình tiểu thuyết Việt Nam một bước ngoặt nhất định. Thời điểm này khởi đi từ, chữ Quốc ngữ có chỗ đứng trên sinh hoạt văn hóa miền Nam.”

Sự ra đời và phát triển của chữ Quốc ngữ là nguồn gốc chính để bộ môn tiểu thuyết lớn mạnh, mà truyện Thầy Lazaro Phiền là một kết quả đích thực khiêm nhường nhất. Đây là một quyển sách mỏng nhưng trong đó tác giả ký thác một ước mơ lớn mà các nhà văn miền Nam mong muốn vươn tới: ”Người An Nam sánh trí, sánh tài thì chẳng thua ai.””
Tác giả: Nguyễn Văn Tâm

25/08/2025

Em còn nhớ hay đã quên

Em còn nhớ hay đã quên
Em còn nhớ hay đã quên, một đêm trăng mờ bên suối vắng? Đêm ấy, ánh trăng không đủ sáng để soi rõ từng lối nhỏ, nhưng đủ để đôi mắt ta tìm thấy nhau trong khoảng lặng của núi rừng. Gió khe khẽ lay cành, tiếng suối róc rách như khúc nhạc dịu dàng dệt nên nền cho những câu thơ em viết tặng anh.
Bài thơ em viết, nét chữ run run mà chân thành. Giấy mỏng mà chứa cả một trời thương nhớ. Anh giữ nó trong tim, như giữ lại khoảnh khắc trăng non vừa lên – mong manh, dịu nhẹ mà vĩnh cửu. Có khi, anh sợ chính mình đã mơ, sợ cái đêm bên suối chỉ là một lát cắt của tưởng tượng. Nhưng dòng chữ em để lại vẫn nhắc anh rằng: đêm ấy là thật, và tình cảm cũng từng là thật.
Em giờ đây ở đâu? Giữa phố đông, có khi nào em chợt nhớ lại khoảng trời yên ả bên suối vắng, nơi một bài thơ nhỏ đã neo hồn hai kẻ cô đơn lại gần nhau? Hay tất cả đã tan như sương, để mình anh ở lại, níu lấy chút dư âm của một đêm trăng mờ?
Anh không trách em nếu đã quên. Vì đôi khi, ký ức chỉ cần một người giữ cũng đã đủ để trở thành vĩnh hằng.

Minh Tuyên Tông – Hoàng đế họa sĩ

 Minh Tuyên Tông – Hoàng đế họa sĩ

 

Tranh truyền thần Minh Tuyên Tông


 


Trong lịch sử Trung Quốc có nhiều vị quân vương yêu nghệ thuật, nhưng thường có cái kết buồn. Ngoại trừ Minh Tuyên Tông.

Đó là Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ, vị hoàng đế thứ năm của nhà Minh, người cai trị với đế hiệu Tuyên Đức (宣德 – Tuyên vinh đức hạnh).

Xem tiếp