Hiển thị các bài đăng có nhãn Đó Đây. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đó Đây. Hiển thị tất cả bài đăng

27/10/2025

Chợ Bến Thành từng là một bãi sình lầy hoang vắng



 Chợ Bến Thành từng là một bãi sình lầy hoang vắng



Chợ Bến Thành (cũ) ban đầu nằm bên bờ kinh Chợ Vải (kinh Lấp / đại lộ Charner, nay là đường Nguyễn Huệ). Sau đó, chợ dời đến địa điểm mới là đầm Boresse (chợ Bến Thành ngày nay).



Trong cuốn Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2016), từ việc tìm hiểu nguồn tài liệu lưu trữ của chính quyền thuộc địa Pháp và các tư liệu có giá trị khác chưa được khai thác nhiều (của Việt Nam và ngoại quốc), tác giả Nguyễn Hữu Quang đã phác thảo nên diện mạo hạ tầng đô thị Sài Gòn trong buổi đầu chuyển đổi từ đô thị phong kiến phương Đông sang đô thị theo kiểu phương Tây. Tác giả cũng cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn tổng quát về quá trình hình thành phát triển, cũng như chi tiết về từng lĩnh vực của hạ tầng Sài Gòn, trong đó có lĩnh vực hạ tầng chợ búa, mà điểm nhấn là chợ Bến Thành trong thưở đầu. Xem tiếp

24/10/2025

Bí mật hố chôn tập thể gần 2.000 người bên dưới vòng xoay Dân Chủ ở Sài Gòn

 

Bí mật hố chôn tập thể gần 2.000 người bên dưới vòng xoay Dân Chủ ở Sài Gòn


Khu vực vòng xoay Dân Chủ (quận 10 và 3) từng là nơi chôn 1.831 người già, trẻ bị vua Minh Mạng ra lệnh xử tử trong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi 180 năm trước.

Hơn 180 năm trước tại vòng xoay Dân Chủ (Q.3, TP.HCM) đã từng là một hố chôn tân tập thể với gần 2000 người. Nhiều câu chuyện sau này đồn thổi cho rằng những vụ giao thông thương tâm xảy ra tại khu vực này là do những vong hồn ở đây gây nên.

Hình :Khu vực vòng xoay dân chủ cách đây 180 năm còn được gọi là “Mả ngụy”. (Ảnh: Internet)

TỔNG TRẤN LÊ VĂN DUYỆT VÀ ÁN THAM NHŨNG CHẤN ĐỘNG LỊCH SỬ

 TỔNG TRẤN LÊ VĂN DUYỆT VÀ ÁN THAM NHŨNG CHẤN ĐỘNG LỊCH SỬ



Lịch sử là lịch sử, cách đây 13 năm gã đã viết một câu chuyện khá đặc biệt về cụ Lê Văn Duyệt. Trong đó có góc nhìn khách quan của chính viên trung úy thuyền trưởng John White, người Mỹ đầu tiên đến Sài Gòn năm 1819 trên chiếc thương thuyền Franklin.

* Hình : Các bác sĩ và nhà khảo cổ đang tìm hiểu bí ẩn trong chiếc quan tài được cho là chôn quan tham Huỳnh Công Lý- Ảnh tư liệu của Đỗ Đình Truật

04/10/2025

Thuật Chuyện Du Lịch Paris-Phạm Quỳnh

 THUẬT CHUYỆN DU LỊCH Ở PARIS-Phạm Quỳnh



Tôi ở bên Pháp trước sau có bốn tháng, vừa đi vừa về, cả thảy là sáu. Tuy công nhiên là “đi Đấu xảo”, song chủ ý là muốn thừa dịp để quan sát nước Pháp, vì các ngài cũng hiểu cho rằng một kẻ thư sinh như tôi, có ngôi vị gì, có tư cách gì mà đủ “đấu xảo” với người ta. Việc đó đã có những bậc cao sang hơn.

Trong mấy tháng tôi ở bên quí quốc, những sự mắt thấy tai nghe, bụng suy trí nghĩ cũng nhiều, nay thuật lại các ngài nghe, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, không biết nói chuyện chi, bỏ chuyện chi, vì không thể sao nói hết cả được. Và cũng không biết bắt đầu nói chuyện gì trước.

Khi tôi khởi sự đi Pháp, trong bụng có rắp một điều: là người mình bấy lâu nay sinh trưởng dưới quyền bảo hộ của quí quốc, vẫn một lòng ngưỡng phục cái văn minh của quí quốc, nhưng khác nào như người đứng xa ngắm bức tranh đẹp, bức tranh ấy tuy có truyền ảnh sang bên này, nhưng mập mờ phảng phất, không hình được hết cái chân tướng, nay được thân hành du lịch bên quí quốc, nên ra sức dò xét xem cái chân tướng ấy thế nào.
. . .  Xem tiếp

30/09/2025

Cảnh và Người Xưa Xứ Nam Kỳ

CẢNH VÀ NGƯỜI XỨ NAM KỲ
Phạm Quỳnh

( Trích đăng một số đoạn trong du ký Một tháng ở Nam Kỳ của Phạm Quỳnh )
Làm trai đã đáng nền trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Cứ theo lời ca dao đó thì tôi đây có lẽ cũng đã đủ tư cách làm một “nền trai” đất Nam Việt vậy. Mùa xuân năm nay đã trải qua mười ngày ở Huế, mùa thu này lại từng ở một tháng Nam Kỳ (…)
(…) lời ca dao kia là tả cái chí của những bậc vô danh anh hùng đó, chớ có đâu lại hợp với cái cảnh một kẻ thư sinh nhỏ mọn như bỉ nhân đây, thừa lúc trong nước còn hiếm người mới ra lạm một phần ngôn luận với quốc dân, nghĩ mình lắm lúc đã thẹn thay, có đâu lại mê cuồng đến đem lời khen của cổ nhân mà tự gán cho mình!…
Song
Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ đến ngày nào khôn. . . . Xem tiếp

21/09/2025

Nội các Triều Nguyễn

Nội các Triều Nguyễn



Nội các là cơ quan có nhiệm vụ tiếp nhận và chuyển giao các giấy tờ từ các cơ quan trung ương, địa phương trình lên nhà Vua. Nếu có chỉ, dụ của nhà Vua thì Nội các thảo phiếu nghĩ để trình; sao lục lại các ý kiến, mệnh lệnh của Vua, tổng hợp nội dung các bản tấu của quan lại, lưu trữ các văn bản, sổ sách để thuận tiện tra cứu và đóng ấn vào các văn bản đã có ý kiến chỉ đạo của nhà Vua. 

18/09/2025

Vì sao các đô thị ở miền Tây thường cách nhau 60km?

 Vì sao các đô thị ở miền Tây thường cách nhau 60km?

Châu Đốc cách Long Xuyên 60km, Long Xuyên cách Cần Thơ 60km, Cần Thơ cách Sóc Trăng 60km, Sóc Trăng cách Bạc Liêu gần 60km và Bạc Liêu lại cách Cà Mau cũng khoảng 60km.


Các đô thị ở Đồng bằng sông Cửu Long đa phần có một điểm chung là thường cách nhau với khoảng cách địa lý 60km. Do đâu có sự trùng hợp kỳ lạ này

29/08/2025

Hơn hai thế kỷ nhộn nhịp Chợ Lớn – Sài Gòn

Hơn hai thế kỷ nhộn nhịp Chợ Lớn – Sài Gòn

 

 Chợ Lớn – quận 5 được coi là huyết mạnh của Sài Gòn, là nơi cung cấp hàng hóa, nhu yếu phẩm hàng ngày của người dân. Chợ An Đông, chợ Kim Biên, chợ Bình Tây, chợ vải Soái Kình Lâm, thương xá Đại Quanh Minh, phố thuốc bắc Hải Thượng Lãn Ông… nổi tiếng không chỉ ở Sài Gòn mà khắp vùng châu thổ Cửu Long đều biết đến.

Xem tiếp



28/08/2025

Vì sao xứ Đàng Trong từng được gọi là Quinam và Quảng Nam quốc?

 Vì sao xứ Đàng Trong từng được gọi là Quinam và Quảng Nam quốc?

 Vì sao xứ Đàng Trong từng được gọi là Quinam và Quảng Nam quốc?

Trong các tư liệu của phương Tây về Đàng Trong thường có những từ “king, roi” hoặc địa danh Quinam, Gan Nan… khiến nhiều người rất tò mò.
Xứ Đàng Trong có 5 phủ, theo tác giả Cristoforo Borri -một trong những giáo sĩ dòng Tên đầu tiên đến Đàng Trong (Đại Việt) thời Chúa sãi Nguyễn Phúc Nguyên và lưu trú ở đây một thời gian dài

Xem tiếp

 

Chuyện Chợ Lớn Hội Kín Người Hoa - Nghĩa Hòa Đoàn

 Chuyện Chợ Lớn : Hội Kín Người Hoa - Nghĩa Hòa Đoàn

Nghĩa Hòa Đoàn 義和團運動 “phong trào vì xã hội công bằng và hòa hợp - 义和团运动”, tổ chức hành động dưới mục đích "phù Thanh diệt Dương" nghĩa là "ủng hộ Thanh triều, tiêu diệt người Tây"... 

Tổ chức được thành lập tại Trung Quốc trong Cuối đời Thanh (1899 - 1901), trong bối cảnh nhân dân Trung Quốc luôn luôn bị đế quốc nước ngoài bức lột, khiến các cuộc nổi dậy như Nghĩa Hòa Đoàn không ngừng phát triển chống lại liên quân 8 nước gồm Anh, Pháp, Đức, Ý, Mỹ, Nga, Nhật, Áo-Hung.

Xem tiếp

 

Nam kỳ thế kỷ 19 qua ghi chép của người Pháp: Trần Bá Lộc và kênh Tổng đốc

Nam kỳ thế kỷ 19 qua ghi chép của người Pháp: Trần Bá Lộc và kênh Tổng đốc


Trần Bá Lộc (1839 - 1899) được biết đến là phụ tá đắc lực cho thực dân Pháp trong việc đàn áp các phong trào khởi nghĩa của người Việt thập niên 1860 - 1880, bác sĩ Baurac đã gặp ông ta vào những năm cuối đời và có đôi dòng nhận xét về nhân vật này. 

Xem tiếp



 

Dinh Thự Tổng Đốc Trần Bá Lộc


27/08/2025

Địa danh Đồng Ông Cộ ở tỉnh Gia Định xưa

 Địa danh Đồng Ông Cộ ở tỉnh Gia Định xưa


Đồng Ông Cộ là địa danh nổi tiếng và quen thuộc với nhiều người dân Sài Gòn Gia Định. Ngày nay, nếu tới gần chợ Bà Chiểu hỏi về Đồng Ông Cộ, người ta sẽ chỉ về phía đường Bùi Đình Túy. Đó là trung tâm của Đồng Ông Cộ xưa, còn khu vực Đồng Ông Cộ thì khá rộng lớn xung quanh đó bán kính tới hàng chục cây số, chiếm gần hết quận Bình Thạnh ngày nay.
Xem tiếp


 

Tên Đường Phố Sài Gòn Xưa & Nay

Tên Đường Phố Sài Gòn Xưa & Nay

 



 

Để nhớ một thời của Sài Gòn Xưa 

"Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đó người đây luống đoạn trường!".

Xem tiếp



26/08/2025

Cuốn sách "Kỹ thuật của người An Nam

 

Cuốn sách cổ quý giá về “Kỹ thuật của người An Nam”

Cuốn sách "Kỹ thuật của người An Nam" có từ năm 1909 và hiện chỉ có 3 bản tại Việt Nam.
Kỹ thuật của người An Nam (Technique du peuple Annamite hay Mechanics and crafts of the Annamites) là một cuốn sách in theo lối in tranh mộc bản (in một mặt) gồm 348 tờ giấy dó, khổ lớn (62cmx44cm; dày 5,4cm), ghi lại cảnh sinh hoạt, lao động hàng ngày của người Việt Nam ở vùng đồng bằng Bắc Bộ vào đầu thế kỷ XX.

Đời còn vui vì có chút tòm tem

 Đời còn vui vì có chút tòm tem

 Minh họa : Xuân Lộc

Đời còn vui vì có chút tòm tem

 Không biết hai tiếng ‘tòm tem’ xuất hiện trong ngôn ngữ Việt từ bao giờ nhưng cái chuyện tòm tem thì quả là xưa không kém gì quả đất. Tuy nhiên, dù có xưa cách mấy thì tòm tem vẫn không bao giờ cũ, vì loài người còn tồn tại tới ngày hôm nay cũng là nhờ vào ‘tòm tem’. Chính vì thế mà thiên hạ vẫn cứ mãi mãi tòm tem và sẽ còn nói nhiều về chuyện tòm tem.....Xem Thêm


Nhân Vật Lịch Sử ( Tiếp theo ) 03-Dương Kiên

Nhân Vật Lịch Sử ( Tiếp theo ) 03-Dương Kiên 

 

Tùy Văn Đế qua nét vẽ của Diêm Lập Bản, họa sĩ đời nhà Đường




Hoàng đế Đại Tùy
Trị vì 581 – 604
Tiền nhiệm : Thành lập nhà Tùy
Kế nhiệm : Tùy Dạng Đế
Thông tin chung
Thê thiếp : Văn Hiến hoàng hậu Độc Cô Già La
Tên thật : Dương Kiên (楊堅)Niên hiệu
Niên hiệu : Khai Hoàng (开皇; 581 - 600)
Nhân Thọ (仁寿; 601 - 604)
Thụy hiệu : Văn Hoàng đế (文皇帝)
Miếu hiệu : Cao Tổ (高祖)
Triều đại : Nhà Tùy
Thân phụ : Dương Trung
Thân mẫu : Lữ Cổ Đào
Sinh : 21 tháng 7, 541 Mất : 13 tháng 8, 604 (63 tuổi)
Nhân Thọ cung, Trường An, Trung Quốc
An táng :Thái lăng (太陵)
Xem tiếp

Sài Gòn Hoài Niệm- Tờ Chương Trình Phát Thanh Của Đài Tiếng Nói Quân Đội Saigon

Hoài Niệm Về Saigon Xưa
Tờ Chương Trình Phát Thanh Của Đài Tiếng Nói Quân Đội Saigon



Khúc nhạc hiệu mở đầu chương trình phát thanh khuya của Đài Phát Thanh Saigon
vào ngày thứ Ba 31/8/1971



Đã hơn 40 năm . Mỗi lần nghe lại khúc nhạc hiệu này lòng lại xúc động,
mắt lại cay cay, kỷ niệm tràn về, nhớ lại những đêm khuya thanh vắng


Đập cổ kính ra tìm lấy bóng ,
Xếp tàn y lại để dành hơi .

1. Giọng nữ: Cô Nghi Xuân... “Bây giờ là không giờ.”

2. Tiếng đàn thập lục của cụ Bửu Lộc
3. Quốc Ca: ca khúc “Tiếng Gọi Thanh Niên” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
4. Giọng nam: Hồng Phúc  ... “Đây là tiếng nói Nước Việt Nam phát thanh từ Thủ Đô Saigon, truyền thanh trên làn sóng trung bình 345 thước tức là 870 ký lô chu kỳ, từ không giờ (00:00) đến sáu giờ (06:00). Và trên các làn sóng 345 thước, 49 thước, 41 thước, 31 thước và 25 thước. Tức là 870, 6165, 7175, 9620 và 11950 ký lô chu kỳ từ 6 giờ đến 24 giờ trên hệ thống A, Đài Saigon. Kính chào quý thính giả.”
5. Quân nhạc: ca khúc “Việt Nam Hùng Tiến” của nhạc sĩ Thẩm Oánh
6. Giọng nữ cô Nghi Xuân giới thiệu chương trình khuya và sáng từ 00:00 đến 06:00 sáng. 



Bàn chân Giao Chỉ của người Việt: Huyền thoại và sự thật

Có một “huyền thoại” lưu truyền rất rộng rãi về bàn chân Giao Chỉ, với hai ngón cái choãi ra, chạm vào nhau, đó mới là đặc điểm người Việt cổ, còn chúng ta không liên quan gì tới người Việt cổ bởi không còn giữ được đặc điểm đó (!).


















Thật kỳ lạ là cho đến tận bây giờ, “huyền thoại” đó vẫn được lưu truyền rộng rãi, ít được xác thực những thông tin liên quan tới nó. Câu chuyện xoay quanh khái niệm Giao Chỉ này tuy “đơn giản”, nhưng đã gây được ảnh hưởng (tiêu cực) không hề nhỏ tới tâm lý của người Việt, gây ra những hiểu lầm, mặc cảm trong tâm tư, tình cảm của người Việt. Vì lý do đó, và cũng là để “giải ảo” “huyền thoại” này, tôi sẽ thực hiện bài khảo cứu này để tìm hiểu về khái niệm Giao Chỉ và bàn chân giao chỉ, cũng như xét lại tính thiếu thực tế và cơ sở khoa học của nó.

1/ Nguồn gốc hai chữ Giao Chỉ

Vấn đề nguồn gốc chữ Giao Chỉ, hay giải nghĩa của nó liên quan tới ngón chân, không chỉ xuất hiện gần đây, mà đã có từ rất lâu rồi: thế kỷ 8 SCN, Đỗ Hựu, soạn giả của Thông Điển đời Đường, có ghi: “Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái)”. 

Các thông tin về bàn chân Giao Chỉ sau đó được ghi lại với nhiều cách giải nghĩa khác nhau nhưng đều hướng về “chân”:

“Về chữ “chỉ” trong từ ghép “Giao Chỉ”: Khang Hy Tự Điển, Từ Hải ấn hành từ 1947 về trước, Hán Việt Tự Điển của Thùy Chửu đều giảng nghĩa “chỉ” là cái chân. Riêng Hán Việt Tự Điển của Thùy Chửu và Từ Hải ấn hành sau 1950 có ghi chú thêm: sau này cũng gọi “chỉ” là ngón chân.” [3]

“Về Giao Chỉ, Từ Hải ghi: Theo sách Lễ Vương chế, người Man ở phương Nam, xâm trán, giao chỉ. Lại giảng rõ thêm: chỉ là chân vậy. Người Man khi nằm, đầu hướng vào trong, chân hướng ra ngoài, hai chân gác tréo lên nhau nên gọi là giao chỉ.” 

Các học giả Việt Nam sau này đều theo các cách giải nghĩa từ Giao Chỉ trong sách vở Trung Hoa.

Tới thời Pháp thuộc, thông tin về bàn chân Giao Chỉ này còn được “ghi lại” và tuyên truyền bởi người Pháp: vào năm 1868, ông bác sĩ Thorel người Pháp của đoàn thám hiểm Doudart de Lagrée cho rằng “hai ngón chân cái giao nhau là ‘một đặc điểm của giống người An Nam’”, và sau này, các học giả Pháp khác cũng hoạ theo ý kiến đó của ông Thorel. 

Chúng ta có thể thấy ngay là vấn đề này được “ghi lại” bởi những kẻ thù của chúng ta, một trong thời Hán thuộc, còn lại trong thời Pháp thuộc, và hai thời kỳ này chế độ đô hộ ra sức tấn công vào tinh thần dân tộc của người Việt, với mục đích đồng hoá và dễ cai trị hơn, nên nếu là người Việt, đáng lẽ chúng ta phải chất vấn ngay tính xác thực của chúng, bởi họ có đủ động cơ để gắn những mục đích không tốt vào câu chữ của mình. Thế nhưng, chúng ta không hề chất vấn chúng, mà thậm chí còn tán đồng và ủng hộ nữa. Và rồi sau đó thông tin này trở lại, và “ám ảnh” người Việt trong suốt mấy thập kỷ vừa qua, gây không ít hệ luỵ với tinh thần của dân tộc, khiến họ hiểu nhầm về nguồn gốc dân tộc mình, mang trong mình một mặc cảm tự ti về một dân tộc “dị chủng”.

2/ Giao Chỉ là gì?

Về nghĩa của chữ Giao trong Giao Chỉ, Tiến sĩ Nguyễn Việt lý giải: chữ Giao được sử dụng với hàm ý “vùng đất thấp ngập nước ven biển”, được sử dụng đầu tiên trong Sử ký của Tư Mã Thiên. Phải đến tận khi tây Hán thôn tính Nam Việt, thì mới xuất hiện địa danh Giao Chỉ bao gồm các quận hành chính như Thương Ngô, Uất Lâm, Nam Hải, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Tượng Quận, sau đó Giao Chỉ được đổi thành Giao Châu, bao gồm quận Giao Chỉ ở đồng bằng sông Hồng hiện nay. Và Giao trong Giao Chỉ có thể tương đồng với Lạc, có nghĩa là vùng đất thấp ngập, nằm trong cách gọi phân biệt tộc người theo vùng cư trú: cao – thấp, núi – biển, cao khô – thấp ướt, như việc người Việt gọi những người vùng thấp là Việt Rặc (Lạc Việt) và những người Việt vùng cao là Việt Âu. “Chỉ” và “Châu” trong Giao Chỉ, Giao Châu đều cùng nghĩa chỉ địa danh cư trú lớn, tương tự với nghĩa của “vùng”. Và theo Tiến sĩ Nguyễn Việt, suy diễn “chỉ” là ngón chân choạc ra của người Việt là thiếu cơ sở khoa học. 

3/ Và “bàn chân giao chỉ” có cơ sở và căn cứ khoa học nào nào không?

Có hai trường hợp dẫn đến sự biến dị ở ngón chân cái:

a. Dân tộc ta là một dân tộc gốc nông nghiệp, đời sống gắn bó chặt chẽ với ruộng đồng, đôi chân thường xuyên đi chân đất, để làm ruộng cho được tiện lợi, và khi lội bùn, ngón cái phải choãi ra để giữ thăng bằng, tránh bị ngã. Cùng với đó là một chế độ ăn không đủ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt thiếu canxi, khiến cho xương dễ bị biến dạng, nên hai ngón chân cái dễ toẽ ra, hình thành bàn chân “giao chỉ” như bức tranh dưới đây. 

b. Hiện tượng biến dị ở chân: đây là hiện tượng hai ngón chân cái chệch ra ngoài không chỉ có ở Việt Nam, mà còn có ở nhiều nhóm dân tộc khác như Mã Lai, Thái Lan, Trung Hoa, Ả Rập, Melanesia và người Negrito da đen, chỉ khác nhau ở mức độ. Đây không phải là hiện tượng bệnh lý, mà có thể coi là một biến dị lại tổ (variation atavique) do xương mọc không thẳng như bình thường. Hiện tượng này thường sẽ mất sau 1-2 thế hệ. 

Và dù là trường hợp a hay trường hợp b, thì theo PGS Hà Văn Phùng, Viện trưởng Viện khảo cổ học, kiểu ngón chân có dạng giao nhau này đều là do bệnh lý chứ không phải là đặc điểm đặc trưng của người Việt. Các bộ xương Việt cổ thời Đông Sơn hay thời thuộc Hán sau này, đều không có đặc điểm đó, thế nên, chỉ có thể nói một bộ phận nhỏ, hoặc rất nhỏ trong toàn thể dân tộc Việt có đặc điểm đó. Các “bàn chân Giao Chỉ” chỉ trong một thời gian ngắn đã biến mất trong các thế hệ sau, thể hiện rõ tính thiếu căn cứ khoa học của nó.

Vậy nên, chúng ta có thể khẳng định ngay: nói tổ tiên người Việt có ngón chân Giao Chỉ là hoàn toàn không chính xác, và cũng không có cơ sở cả về thực tiễn lẫn khoa học.

4/ Kết luận

Bàn chân Giao Chỉ không chỉ không có căn cứ khoa học, mà lịch sử, ngữ âm cũng đều khác với những gì được diễn giải. Chúng ta nên cẩn trọng hơn khi lưu truyền và đón nhận những thông tin lệch lạc tương tự như thế.

Theo : Lược Sử Việt



Chuyện Xứ Nam Kỳ-Bài 1:Tiểu thuyết chữ Quốc ngữ đầu tiên

 Chuyện Xứ Nam Kỳ

Bài 1:Tiểu thuyết chữ Quốc ngữ đầu tiên

Nguyễn Trọng Quản sinh năm 1865 tại Bà Rịa, mất năm 1911 tại Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh). Ông là nhà giáo, nhà văn, là tác giả của các tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ xuất hiện khá sớm trên văn đàn ở nước ta gồm:
-Thầy Lazaro Phiền (tiểu thuyết – 1887),

-Bốn anh em Chà Và cùng chuyện tầm phào chẳng nên đọc,

-Kim vọng phu truyện. . . .

Thưở nhỏ Nguyễn Trọng Quản ở Sài Gòn là bạn học cùng thời với Trương Vĩnh Ký. Từ năm 1870-1872 Nguyễn Trọng Quản được du học tại Lycée D’Alger, Bắc Phi (thuộc địa của Pháp). Sau đó trở về nước ông làm giáo viên, rồi đảm nhiệm chức Giám đốc các trường sơ học Nam Kỳ tại Sài Gòn (1890-1902).

Với tác phẩm Thầy Lazaro Phiền do nhà xuất bản J.Linage, Linraie E’uteur xuất bản năm 1887, Nguyễn Trọng Quản trở thành nhà văn đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ ở Nam bộ. Nguyễn Trọng Quản viết cuốn sách với mục đích nâng cao vị trí của chữ Quốc ngữ trong quá trình phát triển dân trí ở nước ta vào cuối thế kỷ XIX.

“Ham muốn là dùng lời ăn tiếng nói bình thường của dân chúng mà viết nên truyện nhằm trước tiên quảng bá chữ Quốc ngữ sau đó là tuyên truyền một lối sống lành mạnh, cảnh báo những sai lầm của con người…”.

Tác phẩm Thầy Lazaro Phiền với khoảng 32 trang in nhưng đã có những giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn vào năm 1887, Từ đây nền văn học Việt Nam mở sang một trang mới, chữ Quốc ngữ bắt đầu có chỗ đứng trên văn đàn. Từ đây các tiểu thuyết chương hồi bằng chữ Hán, chữ Nôm dần dần mất chỗ đứng trong dòng văn học Việt Nam vốn ảnh hưởng sâu đậm văn học bác học.

Điều đặc biệt là không gian của tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền được diễn ra tại Bà Rịa – Sài Gòn với thời gian vào cuối kỷ XIX. Đọc tác phẩm này người đọc có thể hình dung được phần nào khung cảnh, đời sống sinh hoạt hằng ngày của nhân dân ở vùng Bà Rịa lúc bấy giờ. Những địa danh quen thuộc của vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu được tác giả thường nhắc đến nhiều lần trong cuốn tiểu thuyết này như làng Phước Lễ, Vũng Tàu, Đất Đỏ, Bà Rịa.

Gia tài văn học Nguyễn Trọng Quản để lại không nhiều nhưng ông là nhà văn tiên phong khai phá, người mở đường đặt viên gạch đầu tiên cho ngôi nhà văn học Việt Nam thời hiện đại từ cuối thế kỷ XIX. Trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của tác giả Nguyễn Q.Thắng – Nguyễn Bá Thế, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh trang 986 có nhận xét về nhà văn Nguyễn Trọng Quản như sau:

”Là người Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết theo quan điểm phương Tây… vạch cho lịch trình tiểu thuyết Việt Nam một bước ngoặt nhất định. Thời điểm này khởi đi từ, chữ Quốc ngữ có chỗ đứng trên sinh hoạt văn hóa miền Nam.”

Sự ra đời và phát triển của chữ Quốc ngữ là nguồn gốc chính để bộ môn tiểu thuyết lớn mạnh, mà truyện Thầy Lazaro Phiền là một kết quả đích thực khiêm nhường nhất. Đây là một quyển sách mỏng nhưng trong đó tác giả ký thác một ước mơ lớn mà các nhà văn miền Nam mong muốn vươn tới: ”Người An Nam sánh trí, sánh tài thì chẳng thua ai.””
Tác giả: Nguyễn Văn Tâm

25/08/2025

Minh Tuyên Tông – Hoàng đế họa sĩ

 Minh Tuyên Tông – Hoàng đế họa sĩ

 

Tranh truyền thần Minh Tuyên Tông


 


Trong lịch sử Trung Quốc có nhiều vị quân vương yêu nghệ thuật, nhưng thường có cái kết buồn. Ngoại trừ Minh Tuyên Tông.

Đó là Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ, vị hoàng đế thứ năm của nhà Minh, người cai trị với đế hiệu Tuyên Đức (宣德 – Tuyên vinh đức hạnh).

Xem tiếp