Nội các Triều Nguyễn
Nội các là cơ quan có nhiệm vụ tiếp nhận và chuyển giao các giấy tờ từ các cơ quan trung ương, địa phương trình lên nhà Vua. Nếu có chỉ, dụ của nhà Vua thì Nội các thảo phiếu nghĩ để trình; sao lục lại các ý kiến, mệnh lệnh của Vua, tổng hợp nội dung các bản tấu của quan lại, lưu trữ các văn bản, sổ sách để thuận tiện tra cứu và đóng ấn vào các văn bản đã có ý kiến chỉ đạo của nhà Vua.
Những người bạn Cố đô Huế B.A.V.H, tập 29-1942, Nxb. Thuận Hóa, tr.353.
Năm đầu tiên của triều Vua Gia Long (1802), thành lập hai viện Thị thư, Thị hàn và năm Gia Long thứ hai (1803) lập Thượng bảo ti, có hai vị quan là Chưởng ấn và Phó Chưởng ấn. Đây là ba bộ phận được gọi chung là Tam nội viện, nhiệm vụ chính là phụ trách các công việc văn thư, giấy tờ và cố vấn cho nhà Vua về các việc quốc gia đại sự. Thuộc viên làm việc gồm có: Thừa chỉ viện Đãi chiếu và Thượng bảo khanh lấy Thừa chỉ viện Đãi chiếu hoặc Thừa chỉ Hàn lâm viện kiêm nhiệm. Lại cử các nhân viên Thị hàn viện và Nội hàn viện làm việc tại Thị thư viện[1].
Năm 1820, Vua Minh Mệnh gộp cả 3 viện Thị thư, Thị hàn và Nội hàn để lập nên cơ quan mới là Văn thư phòng (文書房) [2], nhằm quản lí thống nhất về công văn giấy tờ; đặt ra chức Thị giảng ở Viện Hàn lâm, những viên ở Cống sĩ sung làm Khởi cư chú[3], đều cấp bằng của Bộ, cho làm Hành tẩu phòng Văn thư. Lại ban một quả ấn mới bằng đồng, cấp cho phòng văn thư, 3 viện Thị thư, Thị hàn và Nội các cùng giữ. Năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), đặt chức Thượng bảo khanh, Thượng bảo thiếu khanh, quản lí công việc phòng văn thư[4].
Nội các triều Nguyễn, Đại Nam Hội điển sự lệ, quyển 224.
Nội các đóng ở sau nhà Tả Vu (nơi có nhà Đông các) nên còn gọi là Đông các. Năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), lại quy định Đông các là nơi cơ mật, trọng yếu, gần trong cung cấm nên không ai được vào. Thậm chí, Tổng đốc các tỉnh cũng chỉ cho vào Đông các mỗi năm một lần, và phải chờ chỉ lệnh ở nhà Đãi lâu[5].
Tháng Giêng năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), nhà Vua ra chiếu dụ “sai đình thần truyền chỉ cho 11 trấn ở Bắc thành rằng từ nay có việc quân cơ khẩn yếu, và những việc điềm lành hay tai hại, cùng tình hình nhân dân, thói tệ quan lại, giá gạo từng tháng tâu lên, thì được làm tập tâu riêng mà đệ thẳng, đồng thời tư cho thành biện lí. Đạo Ninh Bình thì mọi việc án kiện tâu tập cho được đệ thẳng, còn những công việc tầm thường phải tư cho Thanh Hoa thì chiếu theo lệ trước mà làm”[6]. Quyết định này của nhà Vua nhằm hạn chế quyền hành của viên Tổng trấn Bắc thành và Tổng trấn thành Gia Định. Để giải quyết khối lượng lớn công việc và công văn, giấy tờ, Vua Minh Mệnh thiết lập một cơ quan giúp việc đắc lực mới, đó là đổi Văn thư phòng và thành lập Nội các vào tháng Mười hai năm Minh Mệnh thứ 10 (1829): “Nhà nước ta sau khi đại định, đức Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta đặt ra Thị thư viện. Khi trẫm mới thân chính đổi là Văn thư phòng, danh sắc dẫu khác, cũng đều là để giữ sổ sách và theo hầu hai bên. Nay nghĩ Văn thư phòng tên gọi chưa thỏa nên đổi làm Nội các”[7].
Nội các được lập ra để thay thế Văn thư phòng, nhưng quyền hạn và nhiệm vụ được mở rộng hơn. Nội các triều Nguyễn đứng dưới 6 Bộ, nhưng về mặt quyền hành thì đứng trên 6 Bộ. Nhân sự của Nội các thường là những người được nhà Vua tuyển lựa từ biên chế các Bộ, Viện sung vào làm việc và được phép đeo bài bạc có khắc bốn chữ Khâm tứ nhập các (được phép vào Các). Như vậy, quan Nội các thường là những người xuất thân trong hàng khoa bảng có học thức cao, có quyền, và thân cận với Vua. Để tránh sự lộng quyền, Vua Minh Mệnh đã đề ra quy định quan hàm cao nhất của chức Nội các là Tam phẩm và Tứ phẩm, và thấp hơn Thượng thư Lục Bộ (tức là không thể thăng đến hàm Đại học sĩ hoặc lãnh chức Thượng thư các Bộ, tương đương trật Nhị phẩm). Nếu thăng lên cấp cao hơn nữa thì phải ra khỏi Các, nghĩa là không bao giờ có quan Nội các ở trật Nhị phẩm, ngang hàng Thượng thư các Bộ. Khi bài ban (sắp xếp hàng ngũ) làm lễ thường triều hay đại triều, trưởng quan Nội các và nhân viên phải đứng sau quan Lục Bộ dù cùng phẩm trật. Nếu quan Nội các và quan các Bộ cùng ở trật Chánh Ngũ phẩm, thì quan Nội các phải đứng sau. Ngoài ra, cựu nhân viên của Nội các, một khi đã rời khỏi Các để giữ một chức vụ khác ở bên ngoài thì không được lấy tình quen biết cũ mà tự tiện vào ra cơ quan.
Những người bạn Cố đô Huế B.A.V.H, tập 13-1926, Nxb. Thuận Hóa, tr.316, 315.
Số lượng biên chế ở Nội các khá đông, gồm bốn bộ phận chính, cơ quan đầu não của Nội các do bốn vị quan Đại thần quản lĩnh, đều lấy người thuộc biên chế các Bộ, Viện sung vào làm việc. Trong đó, đặt 2 viên hàm Chánh Tam phẩm là Thị lang các Bộ hoặc Chưởng Viện Học sĩ Viện Hàn lâm sung biện công việc Nội các, thì một viên kiêm lĩnh Thượng bảo khanh. Hai viên hàm Chánh Tứ phẩm là Thị độc học sĩ Viện Hàn lâm, sung làm việc Nội các, thì một viên kiêm lĩnh Thượng bảo Thiếu khanh. Ngoài bốn viên quan đứng đầu kể trên, Nội các còn 28 thuộc viên, phẩm trật từ hàm Chánh Ngũ phẩm xuống tới Tòng Cửu phẩm, gồm có: Chánh ngũ phẩm Hàn lâm viện Thị độc, Tòng ngũ phẩm Thừa chỉ, mỗi hàm 2 người; Tòng lục phẩm Tu soạn 4 người; Chánh Thất phẩm Biên tu, Tòng Thất phẩm Kiểm thảo, mỗi hàm 2 người; Tòng bát phẩm Điển bạ, Tòng cửu phẩm Đãi chiếu, mỗi hàm 8 người, đều sung hành tẩu Nội các[8].
Ngày mồng 1 tháng Giêng năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), nhà Vua ban dụ 30 người đầu tiên vào làm việc tại Nội các gồm các viên Tả Thị lang Bộ Lễ Phan Thanh Giản, Tả Thị lang Bộ Công Trương Đăng Quế đều làm Thượng bảo khanh; Hàn lâm viện Thị độc Học sĩ Lê Nguyên Đàn, Nguyễn Văn Mưu làm Thượng bảo thiếu khanh; Nguyễn Huy Chiếu, Nguyễn Văn Chương bổ thụ Thị độc; Tôn Thất Thận, Tôn Thất Tường giữ chức Thừa chỉ; Tôn Thất Du, Tôn Thất Thường giữ chức Biên tu[9].
TTLTQG I, Châu bản triều Nguyễn.
Nội các chuyên tiếp nhận giải quyết các công việc về văn thư, giấy tờ trước khi trình lên nhà Vua phê duyệt. Tất cả các việc thảo chiếu, chỉ, sắc, dụ cho nhà Vua; Xét chuyển trình các phiến, tấu, biểu, sách từ Kinh đô và ở các địa phương; quản lí các bản ngự chế, thư từ, ấn tín, Nội các đều đảm nhận. Với vai trò văn phòng giúp việc cho nhà Vua, Nội các được xem như là Bộ thứ bảy đứng sau Lục bộ. Cơ cấu tổ chức của Nội các được chia làm bốn bộ phận lệ thuộc, gọi là Tứ tào, mỗi tào được giao một số nhiệm vụ riêng.
Tào Thượng bảo 尙寶曹: Coi giữ các loại quan phòng, ấn triện, bài ngà của các nha môn. Làm phiếu nghĩ, các sắc, dụ, chiếu, chỉ, các chương sớ và sổ sách trong Kinh hoặc địa phương đã được Vua phê duyệt thì hội đồng với các cơ quan khác làm bản sao, rồi theo lệ giao cho tào đóng dấu kim bảo. Sau đó đóng ấn Nội các vào bản sao (bản phó), giao cho các cơ quan đương sự thi hành, còn bản chính có châu điểm, châu phê của Vua thì giao cho Biểu bạ tào tàng trữ.
Kí chú tào 記註曹: Lời Vua ban. Bộ phận này được giao nhiệm vụ thảo các loại chiếu, chế, cáo, sắc, chỉ, dụ, ghi chép mọi sinh hoạt, ngôn luận của nhà Vua, nội dung các tấu nghị, chương sớ do bách quan tâu trình và danh sách, nhật kí học tập của các Hoàng tử. Ngoài ra, còn có nhiệm vụ gìn giữ văn phòng tứ bảo (các đồ ngự dụng, sách vở bút nghiên dành riêng cho Vua dùng). Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) đổi tên Kí chú tào 記註曹 (起居注曹) thành Thừa vụ tào 承務曹.
Đồ thư tào 圖書曹: Đây là văn phòng đặc biệt chuyên trách ghi chép các bài ngự chế, thơ văn, coi giữ tử sách của Vua và các công văn giao thiệp trong nước và nước ngoài. Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) đổi tên Đồ thư tào 圖書曹 thành Bí thư tào 秘書曹.
Biểu bạ tào 表簿曹: Lo giữ giấy tờ công việc. Bộ phận lưu trữ văn thư, chuyên coi giữ các bản tấu sớ đã được nhà Vua ngự phê và văn kiện đã ban hành (châu bản).
Năm 1844, Vua Thiệu Trị đã cho cải tổ lại Nội các, bằng việc đổi tên một số Tào thành Sở, đặt thêm một số bộ phận mới với sự phân công chi tiết và hợp lí hơn. Thượng bảo tào 尙寶曹 đổi làm Thượng bảo sở 尙寶所, Thừa vụ tào 承務曹 đổi làm Ti luân sở 絲綸所, Bí thư tào 秘書曹 đổi làm Đồ thư sở 圖書所, Biểu bạ tào 表簿曹 đổi làm Bản chương sở 本章所. Trong đó Bản chương sở là nơi lưu trữ các Châu bản của Hoàng đế. Bản chương sở được chia thành ba chương để tiện phụ trách công việc là Lại Hộ chương 吏户章, Lễ Binh chương 禮兵章, Hình Công chương 刑工章. Các sở cũng được sắp đặt lại cơ cấu tổ chức và phân chia công việc khoa học hợp lí hơn.
Lại Hộ chương 吏户章, lưu trữ châu bản về nhân sự, tài chính, các văn kiện, sổ sách thuộc Bộ Lại, Bộ Hộ, và các cơ quan khác như Cơ mật viện, Thị vệ xứ, Đô sát viện, Thông chính ti, Hỏa dược sung Pháo khố, Bưu chính và các Doanh, Vệ tại Kinh thành.
Lễ Binh chương 禮兵章, lưu trữ châu bản về lễ nghi và binh hình, các văn kiện, sổ sách thuộc Bộ Lễ, Bộ Binh, và các cơ quan khác như Tôn nhân phủ, Nội vụ phủ, Hàn lâm viện, Khâm thiên giám, Quốc tử giám, Thủ hộ sứ, Điển nghi ti, Thái thường tự, Quang lộc tự, Tào chính và Thừa Thiên phủ.
Hình Công chương 刑工章, lưu trữ châu bản về hình án và công chính, các văn kiện, sổ sách, thuộc Bộ Hình, Bộ Công và các cơ quan khác như Vũ khố, Vũ khố Đốc công, Nội tào, Nội vụ Đốc công, Mộc thương Đốc công, Đại lí tự và Tam pháp ti.
Qua mỗi triều, tổ chức Nội các có thay đổi chút ít, nhưng căn bản vẫn giống tổ chức đời Thiệu Trị. Dưới triều Vua Tự Đức, vai trò của văn chương được đề cao, Nội các trở thành hội văn học có nhiệm vụ sáng tác, sưu tập thơ và thơ ngự chế của nhà Vua. Thuộc viên của Nội các là những người giỏi văn chương nhất trong triều đình.
Bên cạnh nhiệm vụ chính là giúp việc văn phòng cho nhà Vua, Nội các còn biên soạn nhiều công trình sử học có giá trị như: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Minh Mệnh chính yếu, Khâm định tiễu bình lưỡng kì nghịch phỉ chính biên, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục tục biên, Đại Nam điển lệ toát yếu tân biên,…
Thông qua việc thu nhận, chuyển giao và lưu trữ văn bản, Nội các thu thập, phản ánh các thông tin trong Kinh, ngoài trấn để giúp nhà Vua xử lí và ban hành các quyết định điều hành đất nước; đồng thời kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Điều đó càng khẳng định tầm quan trọng của Nội các trong bộ máy các cơ quan trung ương thời Nguyễn.
Trải qua các triều Vua, cơ quan văn phòng của Hoàng đế có nhiều sự thay đổi về tên gọi, về ấn tín. Năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), nhà Vua lập nên Văn thư phòng để thay thế Thị thư viện và Thị hàn viện thời Vua Gia Long và ban ấn Văn thư phòng quan phòng 文書房關防, kích thước 3,2 cm x 4,2 cm. Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), thành lập Nội các thay thế cho Văn thư phòng, sử dụng ấn Sung biện Nội các sự vụ quan phòng 充辨內閣事務關防, kích thước là 3,2 cm x 4,5 cm. Thời Vua Đồng Khánh (1886-1888), do kiêng húy chữ “biện” nên sử dụng ấn Sung lí Nội các sự vụ quan phòng 充理內閣事務關防, kích thước là 3,2 cm x 4,5 cm. Thời Vua Thành Thái (1889-1907), Vua Duy Tân (1907-1916) và Vua Khải Định (1916 -1925) sử dụng hình dấu Sung biện Nội các sự vụ quan phòng 充辨內閣事務 關防. Đầu thời Vua Bảo Đại sử dụng hình dấu Nội các chi ấn 內閣之印, kích thước 4 cm x 4 cm. Sau khi Bảo Đại làm Quốc trưởng (5/2/1933), lập chính phủ mới, đặt ra Ngự tiền văn phòng và cử Phạm Quỳnh làm Tổng lí Ngự tiền văn phòng thì cơ quan Nội các đã chấm dứt hoạt động sau 104 năm (1829-1933) với vai trò là văn phòng Hoàng đế có thẩm quyền. Các ấn tín trước đều không sử dụng và thay vào đó là ấn Ngự tiền văn phòng.
[1] Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 14, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 16-17.
[2] Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 14, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 16-17.
[3] Khởi cư chú: Chức quan theo hầu vua, vua nói câu gì, làm việc gì, đều biên chép cả.
[4] Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 14, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 17.
[5] Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 14, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 23.
[6] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên, tập 2, Nxb Giáo dục, H, 2007, tr. 590.
[7] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên, tập 2, Nxb Giáo dục, H, 2007, tr. 954.
[8] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên, tập 2, Nxb. Giáo Dục, H. 2007, tr. 954.
[9] TTLTQG I, Châu bản triều Nguyễn, triều Minh Mệnh, tập số 40, tờ số 82.