Bộ phim tài liệu nhiều tập về sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của Việt Nam Cộng Hòa. Gồm 12 Tập
29/08/2025
Bộ phim tài liệu nhiều tập về sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Việt Nam Cộng Hòa.
Hơn hai thế kỷ nhộn nhịp Chợ Lớn – Sài Gòn
|
|
|
28/08/2025
Vòng quanh châu Á - Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ
Vòng quanh châu Á - Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ
Lắng Lòng
Có những khoảnh khắc, ta chẳng cần gì hơn ngoài một chút lặng im. Không tiếng nói, không xô bồ, không vội vã. Chỉ có nhịp thở mình hòa vào nhịp thở của đất trời, để thấy lòng nhẹ như một chiếc lá khô vừa rơi xuống mặt hồ, khẽ chạm rồi tan loãng vào khoảng lặng mênh mông.
Trong tĩnh không ấy, ta như nghe rõ hơn tiếng thì thầm của chính mình. Những lo toan thường nhật bỗng trở nên bé nhỏ, những ồn ào từng khiến ta mệt mỏi cũng dần tan biến. Còn lại, chỉ là sự hiện hữu giản đơn của giọt nắng vàng, của mùi gió mới, của bóng mây trôi thản nhiên qua bầu trời.
Lắng lòng một chút, để nhận ra rằng đời sống vốn dịu dàng. Ta không cần chạy mãi, không cần níu giữ tất cả. Chỉ cần thả mình trong an yên, để lòng được rửa trôi bụi bặm, để yêu thương được hồi sinh.
Và rồi, trong tĩnh không, ta tìm thấy chính mình – một tâm hồn thanh thản, biết ơn từng phút giây tồn tại.
Vì sao xứ Đàng Trong từng được gọi là Quinam và Quảng Nam quốc?
Vì sao xứ Đàng Trong từng được gọi là Quinam và Quảng Nam quốc?
Vì sao xứ Đàng Trong từng được gọi là Quinam và Quảng Nam quốc? |
Chuyện Chợ Lớn Hội Kín Người Hoa - Nghĩa Hòa Đoàn
Chuyện Chợ Lớn : Hội Kín Người Hoa - Nghĩa Hòa Đoàn
Nghĩa Hòa Đoàn 義和團運動 “phong trào vì xã hội công bằng và hòa hợp - 义和团运动”, tổ chức hành động dưới mục đích "phù Thanh diệt Dương" nghĩa là "ủng hộ Thanh triều, tiêu diệt người Tây"... Tổ chức được thành lập tại Trung Quốc trong Cuối đời Thanh (1899 - 1901), trong bối cảnh nhân dân Trung Quốc luôn luôn bị đế quốc nước ngoài bức lột, khiến các cuộc nổi dậy như Nghĩa Hòa Đoàn không ngừng phát triển chống lại liên quân 8 nước gồm Anh, Pháp, Đức, Ý, Mỹ, Nga, Nhật, Áo-Hung. |
Nam kỳ thế kỷ 19 qua ghi chép của người Pháp: Trần Bá Lộc và kênh Tổng đốc
Trần Bá Lộc (1839 - 1899) được biết đến là phụ tá đắc lực cho thực dân Pháp trong việc đàn áp các phong trào khởi nghĩa của người Việt thập niên 1860 - 1880, bác sĩ Baurac đã gặp ông ta vào những năm cuối đời và có đôi dòng nhận xét về nhân vật này. |
Dinh Thự Tổng Đốc Trần Bá Lộc |
27/08/2025
Địa danh Đồng Ông Cộ ở tỉnh Gia Định xưa
Địa danh Đồng Ông Cộ ở tỉnh Gia Định xưa
| Đồng Ông Cộ là địa danh nổi tiếng và quen thuộc với nhiều người dân Sài Gòn Gia Định. Ngày nay, nếu tới gần chợ Bà Chiểu hỏi về Đồng Ông Cộ, người ta sẽ chỉ về phía đường Bùi Đình Túy. Đó là trung tâm của Đồng Ông Cộ xưa, còn khu vực Đồng Ông Cộ thì khá rộng lớn xung quanh đó bán kính tới hàng chục cây số, chiếm gần hết quận Bình Thạnh ngày nay. Xem tiếp |
Tên Đường Phố Sài Gòn Xưa & Nay
|
|
Để nhớ một thời của Sài Gòn Xưa "Tạo hóa gây chi cuộc hí trường |
26/08/2025
Cuốn sách "Kỹ thuật của người An Nam
Đời còn vui vì có chút tòm tem
Đời còn vui vì có chút tòm tem
Minh họa : Xuân Lộc |
Đời còn vui vì có chút tòm tem |
Nhân Vật Lịch Sử ( Tiếp theo ) 03-Dương Kiên
|
Tùy Văn Đế qua nét vẽ của Diêm Lập Bản, họa sĩ đời nhà Đường
|
Hoàng đế Đại Tùy Trị vì 581 – 604 Tiền nhiệm : Thành lập nhà Tùy Kế nhiệm : Tùy Dạng Đế Thông tin chung Thê thiếp : Văn Hiến hoàng hậu Độc Cô Già La Tên thật : Dương Kiên (楊堅)Niên hiệu Niên hiệu : Khai Hoàng (开皇; 581 - 600) Nhân Thọ (仁寿; 601 - 604) Thụy hiệu : Văn Hoàng đế (文皇帝) Miếu hiệu : Cao Tổ (高祖) Triều đại : Nhà Tùy Thân phụ : Dương Trung Thân mẫu : Lữ Cổ Đào Sinh : 21 tháng 7, 541 Mất : 13 tháng 8, 604 (63 tuổi) Nhân Thọ cung, Trường An, Trung Quốc An táng :Thái lăng (太陵) Xem tiếp |
Sài Gòn Hoài Niệm- Tờ Chương Trình Phát Thanh Của Đài Tiếng Nói Quân Đội Saigon
Tờ Chương Trình Phát Thanh Của Đài Tiếng Nói Quân Đội Saigon
Khúc nhạc hiệu mở đầu chương trình phát thanh khuya của Đài Phát Thanh Saigon
vào ngày thứ Ba 31/8/1971
Đã hơn 40 năm . Mỗi lần nghe lại khúc nhạc hiệu này lòng lại xúc động,
mắt lại cay cay, kỷ niệm tràn về, nhớ lại những đêm khuya thanh vắng
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng ,
Xếp tàn y lại để dành hơi .
2. Tiếng đàn thập lục của cụ Bửu Lộc
3. Quốc Ca: ca khúc “Tiếng Gọi Thanh Niên” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
4. Giọng nam: Hồng Phúc ... “Đây là tiếng nói Nước Việt Nam phát thanh từ Thủ Đô Saigon, truyền thanh trên làn sóng trung bình 345 thước tức là 870 ký lô chu kỳ, từ không giờ (00:00) đến sáu giờ (06:00). Và trên các làn sóng 345 thước, 49 thước, 41 thước, 31 thước và 25 thước. Tức là 870, 6165, 7175, 9620 và 11950 ký lô chu kỳ từ 6 giờ đến 24 giờ trên hệ thống A, Đài Saigon. Kính chào quý thính giả.”
5. Quân nhạc: ca khúc “Việt Nam Hùng Tiến” của nhạc sĩ Thẩm Oánh
6. Giọng nữ cô Nghi Xuân giới thiệu chương trình khuya và sáng từ 00:00 đến 06:00 sáng.
Bàn chân Giao Chỉ của người Việt: Huyền thoại và sự thật
1/ Nguồn gốc hai chữ Giao Chỉ
Vấn đề nguồn gốc chữ Giao Chỉ, hay giải nghĩa của nó liên quan tới ngón chân, không chỉ xuất hiện gần đây, mà đã có từ rất lâu rồi: thế kỷ 8 SCN, Đỗ Hựu, soạn giả của Thông Điển đời Đường, có ghi: “Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái)”.
Các thông tin về bàn chân Giao Chỉ sau đó được ghi lại với nhiều cách giải nghĩa khác nhau nhưng đều hướng về “chân”:
“Về chữ “chỉ” trong từ ghép “Giao Chỉ”: Khang Hy Tự Điển, Từ Hải ấn hành từ 1947 về trước, Hán Việt Tự Điển của Thùy Chửu đều giảng nghĩa “chỉ” là cái chân. Riêng Hán Việt Tự Điển của Thùy Chửu và Từ Hải ấn hành sau 1950 có ghi chú thêm: sau này cũng gọi “chỉ” là ngón chân.” [3]
“Về Giao Chỉ, Từ Hải ghi: Theo sách Lễ Vương chế, người Man ở phương Nam, xâm trán, giao chỉ. Lại giảng rõ thêm: chỉ là chân vậy. Người Man khi nằm, đầu hướng vào trong, chân hướng ra ngoài, hai chân gác tréo lên nhau nên gọi là giao chỉ.”
Các học giả Việt Nam sau này đều theo các cách giải nghĩa từ Giao Chỉ trong sách vở Trung Hoa.
Tới thời Pháp thuộc, thông tin về bàn chân Giao Chỉ này còn được “ghi lại” và tuyên truyền bởi người Pháp: vào năm 1868, ông bác sĩ Thorel người Pháp của đoàn thám hiểm Doudart de Lagrée cho rằng “hai ngón chân cái giao nhau là ‘một đặc điểm của giống người An Nam’”, và sau này, các học giả Pháp khác cũng hoạ theo ý kiến đó của ông Thorel.
Chúng ta có thể thấy ngay là vấn đề này được “ghi lại” bởi những kẻ thù của chúng ta, một trong thời Hán thuộc, còn lại trong thời Pháp thuộc, và hai thời kỳ này chế độ đô hộ ra sức tấn công vào tinh thần dân tộc của người Việt, với mục đích đồng hoá và dễ cai trị hơn, nên nếu là người Việt, đáng lẽ chúng ta phải chất vấn ngay tính xác thực của chúng, bởi họ có đủ động cơ để gắn những mục đích không tốt vào câu chữ của mình. Thế nhưng, chúng ta không hề chất vấn chúng, mà thậm chí còn tán đồng và ủng hộ nữa. Và rồi sau đó thông tin này trở lại, và “ám ảnh” người Việt trong suốt mấy thập kỷ vừa qua, gây không ít hệ luỵ với tinh thần của dân tộc, khiến họ hiểu nhầm về nguồn gốc dân tộc mình, mang trong mình một mặc cảm tự ti về một dân tộc “dị chủng”.
2/ Giao Chỉ là gì?
Về nghĩa của chữ Giao trong Giao Chỉ, Tiến sĩ Nguyễn Việt lý giải: chữ Giao được sử dụng với hàm ý “vùng đất thấp ngập nước ven biển”, được sử dụng đầu tiên trong Sử ký của Tư Mã Thiên. Phải đến tận khi tây Hán thôn tính Nam Việt, thì mới xuất hiện địa danh Giao Chỉ bao gồm các quận hành chính như Thương Ngô, Uất Lâm, Nam Hải, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Tượng Quận, sau đó Giao Chỉ được đổi thành Giao Châu, bao gồm quận Giao Chỉ ở đồng bằng sông Hồng hiện nay. Và Giao trong Giao Chỉ có thể tương đồng với Lạc, có nghĩa là vùng đất thấp ngập, nằm trong cách gọi phân biệt tộc người theo vùng cư trú: cao – thấp, núi – biển, cao khô – thấp ướt, như việc người Việt gọi những người vùng thấp là Việt Rặc (Lạc Việt) và những người Việt vùng cao là Việt Âu. “Chỉ” và “Châu” trong Giao Chỉ, Giao Châu đều cùng nghĩa chỉ địa danh cư trú lớn, tương tự với nghĩa của “vùng”. Và theo Tiến sĩ Nguyễn Việt, suy diễn “chỉ” là ngón chân choạc ra của người Việt là thiếu cơ sở khoa học.
3/ Và “bàn chân giao chỉ” có cơ sở và căn cứ khoa học nào nào không?
Có hai trường hợp dẫn đến sự biến dị ở ngón chân cái:
a. Dân tộc ta là một dân tộc gốc nông nghiệp, đời sống gắn bó chặt chẽ với ruộng đồng, đôi chân thường xuyên đi chân đất, để làm ruộng cho được tiện lợi, và khi lội bùn, ngón cái phải choãi ra để giữ thăng bằng, tránh bị ngã. Cùng với đó là một chế độ ăn không đủ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt thiếu canxi, khiến cho xương dễ bị biến dạng, nên hai ngón chân cái dễ toẽ ra, hình thành bàn chân “giao chỉ” như bức tranh dưới đây.
b. Hiện tượng biến dị ở chân: đây là hiện tượng hai ngón chân cái chệch ra ngoài không chỉ có ở Việt Nam, mà còn có ở nhiều nhóm dân tộc khác như Mã Lai, Thái Lan, Trung Hoa, Ả Rập, Melanesia và người Negrito da đen, chỉ khác nhau ở mức độ. Đây không phải là hiện tượng bệnh lý, mà có thể coi là một biến dị lại tổ (variation atavique) do xương mọc không thẳng như bình thường. Hiện tượng này thường sẽ mất sau 1-2 thế hệ.
Và dù là trường hợp a hay trường hợp b, thì theo PGS Hà Văn Phùng, Viện trưởng Viện khảo cổ học, kiểu ngón chân có dạng giao nhau này đều là do bệnh lý chứ không phải là đặc điểm đặc trưng của người Việt. Các bộ xương Việt cổ thời Đông Sơn hay thời thuộc Hán sau này, đều không có đặc điểm đó, thế nên, chỉ có thể nói một bộ phận nhỏ, hoặc rất nhỏ trong toàn thể dân tộc Việt có đặc điểm đó. Các “bàn chân Giao Chỉ” chỉ trong một thời gian ngắn đã biến mất trong các thế hệ sau, thể hiện rõ tính thiếu căn cứ khoa học của nó.
Vậy nên, chúng ta có thể khẳng định ngay: nói tổ tiên người Việt có ngón chân Giao Chỉ là hoàn toàn không chính xác, và cũng không có cơ sở cả về thực tiễn lẫn khoa học.
4/ Kết luận
Bàn chân Giao Chỉ không chỉ không có căn cứ khoa học, mà lịch sử, ngữ âm cũng đều khác với những gì được diễn giải. Chúng ta nên cẩn trọng hơn khi lưu truyền và đón nhận những thông tin lệch lạc tương tự như thế.
Chuyện Xứ Nam Kỳ-Bài 1:Tiểu thuyết chữ Quốc ngữ đầu tiên
Chuyện Xứ Nam Kỳ
Bài 1:Tiểu thuyết chữ Quốc ngữ đầu tiên-Bốn anh em Chà Và cùng chuyện tầm phào chẳng nên đọc,
-Kim vọng phu truyện. . . .
Thưở nhỏ Nguyễn Trọng Quản ở Sài Gòn là bạn học cùng thời với Trương Vĩnh Ký. Từ năm 1870-1872 Nguyễn Trọng Quản được du học tại Lycée D’Alger, Bắc Phi (thuộc địa của Pháp). Sau đó trở về nước ông làm giáo viên, rồi đảm nhiệm chức Giám đốc các trường sơ học Nam Kỳ tại Sài Gòn (1890-1902).
Với tác phẩm Thầy Lazaro Phiền do nhà xuất bản J.Linage, Linraie E’uteur xuất bản năm 1887, Nguyễn Trọng Quản trở thành nhà văn đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ ở Nam bộ. Nguyễn Trọng Quản viết cuốn sách với mục đích nâng cao vị trí của chữ Quốc ngữ trong quá trình phát triển dân trí ở nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
“Ham muốn là dùng lời ăn tiếng nói bình thường của dân chúng mà viết nên truyện nhằm trước tiên quảng bá chữ Quốc ngữ sau đó là tuyên truyền một lối sống lành mạnh, cảnh báo những sai lầm của con người…”.
Tác phẩm Thầy Lazaro Phiền với khoảng 32 trang in nhưng đã có những giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn vào năm 1887, Từ đây nền văn học Việt Nam mở sang một trang mới, chữ Quốc ngữ bắt đầu có chỗ đứng trên văn đàn. Từ đây các tiểu thuyết chương hồi bằng chữ Hán, chữ Nôm dần dần mất chỗ đứng trong dòng văn học Việt Nam vốn ảnh hưởng sâu đậm văn học bác học.
Điều đặc biệt là không gian của tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền được diễn ra tại Bà Rịa – Sài Gòn với thời gian vào cuối kỷ XIX. Đọc tác phẩm này người đọc có thể hình dung được phần nào khung cảnh, đời sống sinh hoạt hằng ngày của nhân dân ở vùng Bà Rịa lúc bấy giờ. Những địa danh quen thuộc của vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu được tác giả thường nhắc đến nhiều lần trong cuốn tiểu thuyết này như làng Phước Lễ, Vũng Tàu, Đất Đỏ, Bà Rịa.
Gia tài văn học Nguyễn Trọng Quản để lại không nhiều nhưng ông là nhà văn tiên phong khai phá, người mở đường đặt viên gạch đầu tiên cho ngôi nhà văn học Việt Nam thời hiện đại từ cuối thế kỷ XIX. Trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của tác giả Nguyễn Q.Thắng – Nguyễn Bá Thế, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh trang 986 có nhận xét về nhà văn Nguyễn Trọng Quản như sau:
”Là người Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết theo quan điểm phương Tây… vạch cho lịch trình tiểu thuyết Việt Nam một bước ngoặt nhất định. Thời điểm này khởi đi từ, chữ Quốc ngữ có chỗ đứng trên sinh hoạt văn hóa miền Nam.”
Sự ra đời và phát triển của chữ Quốc ngữ là nguồn gốc chính để bộ môn tiểu thuyết lớn mạnh, mà truyện Thầy Lazaro Phiền là một kết quả đích thực khiêm nhường nhất. Đây là một quyển sách mỏng nhưng trong đó tác giả ký thác một ước mơ lớn mà các nhà văn miền Nam mong muốn vươn tới: ”Người An Nam sánh trí, sánh tài thì chẳng thua ai.””
Tác giả: Nguyễn Văn Tâm
25/08/2025
Em còn nhớ hay đã quên
Em giờ đây ở đâu? Giữa phố đông, có khi nào em chợt nhớ lại khoảng trời yên ả bên suối vắng, nơi một bài thơ nhỏ đã neo hồn hai kẻ cô đơn lại gần nhau? Hay tất cả đã tan như sương, để mình anh ở lại, níu lấy chút dư âm của một đêm trăng mờ?
Anh không trách em nếu đã quên. Vì đôi khi, ký ức chỉ cần một người giữ cũng đã đủ để trở thành vĩnh hằng.
Minh Tuyên Tông – Hoàng đế họa sĩ
Minh Tuyên Tông – Hoàng đế họa sĩ
|
Tranh truyền thần Minh Tuyên Tông |
Đó là Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ, vị hoàng đế thứ năm của nhà Minh, người cai trị với đế hiệu Tuyên Đức (宣德 – Tuyên vinh đức hạnh). |
21/08/2025
Giây phút một mình
Có những lúc tôi thả mình trong khoảng lặng của riêng mình, chỉ còn lại tiếng thở và nhịp tim quen thuộc. Không ồn ào, không vội vã, thế giới như chậm lại để tôi nhìn rõ hơn chính mình. Một tách trà nóng, ánh sáng dịu của buổi chiều muộn, và tôi ngồi đó, lắng nghe những ý nghĩ miên man trôi qua. Giây phút một mình không phải là cô đơn, mà là khoảng thời gian để tâm hồn được nghỉ ngơi, để tôi gom lại những mảnh vụn trong ngày và tự nhủ: bình yên thật ra luôn bắt đầu từ
bên trong.
19/08/2025
Một khảo cứu về người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn
|
|
Người Hoa qua Chợ Lớn sinh sống không phải vì sinh kế như tại Australia, hoặc Mỹ, hay vì lý do thương mại như tại Nhật… Họ qua vì lý do chính trị. Chợ Lớn đã được xây dựng bởi những con người tỵ nạn chính trị. tác giả Huỳnh Thị Mỹ Nhàn |
17/08/2025
Hoàng Hôn Trên Bản Cao
Hoàng Hôn Trên Bản Cao
|
|
|
Sương rơi khe suối
Bóng chiều dần khuất xa
Khói lam chiều vương bản.












