27/10/2025

Chợ Bến Thành từng là một bãi sình lầy hoang vắng



 Chợ Bến Thành từng là một bãi sình lầy hoang vắng



Chợ Bến Thành (cũ) ban đầu nằm bên bờ kinh Chợ Vải (kinh Lấp / đại lộ Charner, nay là đường Nguyễn Huệ). Sau đó, chợ dời đến địa điểm mới là đầm Boresse (chợ Bến Thành ngày nay).



Trong cuốn Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2016), từ việc tìm hiểu nguồn tài liệu lưu trữ của chính quyền thuộc địa Pháp và các tư liệu có giá trị khác chưa được khai thác nhiều (của Việt Nam và ngoại quốc), tác giả Nguyễn Hữu Quang đã phác thảo nên diện mạo hạ tầng đô thị Sài Gòn trong buổi đầu chuyển đổi từ đô thị phong kiến phương Đông sang đô thị theo kiểu phương Tây. Tác giả cũng cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn tổng quát về quá trình hình thành phát triển, cũng như chi tiết về từng lĩnh vực của hạ tầng Sài Gòn, trong đó có lĩnh vực hạ tầng chợ búa, mà điểm nhấn là chợ Bến Thành trong thưở đầu. Xem tiếp

24/10/2025

Bí mật hố chôn tập thể gần 2.000 người bên dưới vòng xoay Dân Chủ ở Sài Gòn

 

Bí mật hố chôn tập thể gần 2.000 người bên dưới vòng xoay Dân Chủ ở Sài Gòn


Khu vực vòng xoay Dân Chủ (quận 10 và 3) từng là nơi chôn 1.831 người già, trẻ bị vua Minh Mạng ra lệnh xử tử trong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi 180 năm trước.

Hơn 180 năm trước tại vòng xoay Dân Chủ (Q.3, TP.HCM) đã từng là một hố chôn tân tập thể với gần 2000 người. Nhiều câu chuyện sau này đồn thổi cho rằng những vụ giao thông thương tâm xảy ra tại khu vực này là do những vong hồn ở đây gây nên.

Hình :Khu vực vòng xoay dân chủ cách đây 180 năm còn được gọi là “Mả ngụy”. (Ảnh: Internet)

TỔNG TRẤN LÊ VĂN DUYỆT VÀ ÁN THAM NHŨNG CHẤN ĐỘNG LỊCH SỬ

 TỔNG TRẤN LÊ VĂN DUYỆT VÀ ÁN THAM NHŨNG CHẤN ĐỘNG LỊCH SỬ



Lịch sử là lịch sử, cách đây 13 năm gã đã viết một câu chuyện khá đặc biệt về cụ Lê Văn Duyệt. Trong đó có góc nhìn khách quan của chính viên trung úy thuyền trưởng John White, người Mỹ đầu tiên đến Sài Gòn năm 1819 trên chiếc thương thuyền Franklin.

* Hình : Các bác sĩ và nhà khảo cổ đang tìm hiểu bí ẩn trong chiếc quan tài được cho là chôn quan tham Huỳnh Công Lý- Ảnh tư liệu của Đỗ Đình Truật

23/10/2025

Nam Kỳ Lục Tỉnh

 Nam Kỳ Lục Tỉnh


Đối với người Việt miền Nam sinh vào nửa đầu thế kỷ 20. Bốn từ Nam Kỳ Lục Tỉnh có một ý nghĩa máu thịt. Với những ký ức về một thời kỳ đầy gian khó của cha ông. Chúng gợi lên hình ảnh những đồng lúa bạt ngàn, những chiếc ghe thương hồ chở theo những phận người lênh đênh sông nước. Có khi kéo dài suốt cả một đời.

10/10/2025

Nhân Vật Lịch Sử : 05-Lý Phục Man

 


Nhân Vật Lịch Sử : 05-Lý Phục Man


Lý Phục Man (李服蠻, ? - 547), không rõ họ tên thật.Ông là một danh tướng thời Lý Nam Đế ở thế kỷ 6 trong lịch sử Việt Nam. Vì ông có công thu phục được các bộ tộc thiểu số (người Man) vùng Đỗ Động - Đường Lâm (vùng tây bắc nước ta thời Lý Nam Đế) nên được suy tôn là "Phục Man Tướng Quân".Ông cùng với Phạm Tu đánh tan quân Lâm Ấp xâm lược nên đã được vua cho mang họ "Lý") 1 . Ông là người Làng Cổ Sở sau đổi là Làng GIÁ(gồm ba làng: Yên sở, Đắc Sở,Yên Thái thuộc huyện Hoài Đức,Hà Nội ngày nay).Theo Thần Tích tại Quán GIÁ,Ông nổi tiếng là người giỏi võ nghệ,có tài thuần trị được voi. Là một trung thần có nhiều công lao, nên khi mất, ông được nhân dân nhiều nơi tôn thờ làm Thành hoàng làng2 . Mặc dù vậy, trong các tài liệu chính sử xưa kia không thấy chép về ông. Tên và thần tích của ông xuất hiện trong các tài liệu dã sử như: "Tiền Nam Đế Sự Tích Quốc Âm", Việt điện u linh tập thời Trần; và sau đó được kể lại trong Đại Nam nhất thống chí thời Nhà Nguyễn và trong Thần tích tại đền thờ Ông. . . . Xem tiếp

06/10/2025

Ký ức mùa Trung Thu thơ ấu

Ký ức mùa Trung Thu thơ ấu


Trăng vằng vặc giữa trời thu cổ tích,
Ánh lung linh soi mái tóc tuổi thơ.
Tiếng trống rộn, lồng đèn cười khúc khích,
Phố nhỏ đầy hương cốm, hương mơ.

Chiếc đèn ngôi sao run trong tay nhỏ,
Bước chân reo qua bến nước, sân đình.
Áo mẹ vá còn thơm mùi khói bếp,
Bánh nướng chia nhau — ngọt cả ân tình.

Giờ xa lắm, trăng xưa còn sáng đó,
Nhưng người xưa đã khuất nẻo thời gian.
Chỉ kỷ niệm như hương thu còn đọng,
Soi lòng ta — ngọn lửa của trăng vàng.



05/10/2025

Giá trị từ Hán Việt trong Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan


Giá trị từ Hán Việt trong Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan

Đề tài hoài cổ, cảm hứng hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã đi qua đã được bà Huyện Thanh Quan thể hiện qua bài Thăng Long thành hoài cổ với thơ thất ngôn - một trình độ ngôn ngữ tinh tế, điêu luyện, chuẩn xác để miêu tả sự vật, biểu hiện tâm tư.
Xem tiếp

04/10/2025

Thuật Chuyện Du Lịch Paris-Phạm Quỳnh

 THUẬT CHUYỆN DU LỊCH Ở PARIS-Phạm Quỳnh



Tôi ở bên Pháp trước sau có bốn tháng, vừa đi vừa về, cả thảy là sáu. Tuy công nhiên là “đi Đấu xảo”, song chủ ý là muốn thừa dịp để quan sát nước Pháp, vì các ngài cũng hiểu cho rằng một kẻ thư sinh như tôi, có ngôi vị gì, có tư cách gì mà đủ “đấu xảo” với người ta. Việc đó đã có những bậc cao sang hơn.

Trong mấy tháng tôi ở bên quí quốc, những sự mắt thấy tai nghe, bụng suy trí nghĩ cũng nhiều, nay thuật lại các ngài nghe, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, không biết nói chuyện chi, bỏ chuyện chi, vì không thể sao nói hết cả được. Và cũng không biết bắt đầu nói chuyện gì trước.

Khi tôi khởi sự đi Pháp, trong bụng có rắp một điều: là người mình bấy lâu nay sinh trưởng dưới quyền bảo hộ của quí quốc, vẫn một lòng ngưỡng phục cái văn minh của quí quốc, nhưng khác nào như người đứng xa ngắm bức tranh đẹp, bức tranh ấy tuy có truyền ảnh sang bên này, nhưng mập mờ phảng phất, không hình được hết cái chân tướng, nay được thân hành du lịch bên quí quốc, nên ra sức dò xét xem cái chân tướng ấy thế nào.
. . .  Xem tiếp

30/09/2025

Cảnh và Người Xưa Xứ Nam Kỳ

CẢNH VÀ NGƯỜI XỨ NAM KỲ
Phạm Quỳnh

( Trích đăng một số đoạn trong du ký Một tháng ở Nam Kỳ của Phạm Quỳnh )
Làm trai đã đáng nền trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Cứ theo lời ca dao đó thì tôi đây có lẽ cũng đã đủ tư cách làm một “nền trai” đất Nam Việt vậy. Mùa xuân năm nay đã trải qua mười ngày ở Huế, mùa thu này lại từng ở một tháng Nam Kỳ (…)
(…) lời ca dao kia là tả cái chí của những bậc vô danh anh hùng đó, chớ có đâu lại hợp với cái cảnh một kẻ thư sinh nhỏ mọn như bỉ nhân đây, thừa lúc trong nước còn hiếm người mới ra lạm một phần ngôn luận với quốc dân, nghĩ mình lắm lúc đã thẹn thay, có đâu lại mê cuồng đến đem lời khen của cổ nhân mà tự gán cho mình!…
Song
Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ đến ngày nào khôn. . . . Xem tiếp

21/09/2025

Nội các Triều Nguyễn

Nội các Triều Nguyễn



Nội các là cơ quan có nhiệm vụ tiếp nhận và chuyển giao các giấy tờ từ các cơ quan trung ương, địa phương trình lên nhà Vua. Nếu có chỉ, dụ của nhà Vua thì Nội các thảo phiếu nghĩ để trình; sao lục lại các ý kiến, mệnh lệnh của Vua, tổng hợp nội dung các bản tấu của quan lại, lưu trữ các văn bản, sổ sách để thuận tiện tra cứu và đóng ấn vào các văn bản đã có ý kiến chỉ đạo của nhà Vua. 

Nhân Vật Lịch Sử /04-Dương Lâm



Nhân Vật Lịch Sử /04-Dương Lâm

Dương Lâm (1851–1920), hiệu Vân Hồ, Quất Đình, tự Thu Nguyên, Mộng Thạch, là quan nhà Nguyễn, một danh sĩ Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Ông nổi tiếng về tài văn chương, tính tình tao nhã, lại là một nhà giáo có biệt tài.(1)

Thân thế và sự nghiệp

Ông sinh năm 1851, người làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội. Thân phụ ông là Dương Quang, anh ruột ông là Tiến sĩ Dương Khuê.

Năm Mậu Dần (1878), ông đỗ Cử nhân, đến năm Giáp Thân (1884), được bổ làm Huấn đạo Ý Yên, rồi thăng làm Tri huyện Hoài Yên.

Ba năm sau, ông làm Bang tá Nha kinh lược Bắc Kỳ.

Năm Kỷ Sửu (1889), ông được bổ Án sát Hưng Yên, rồi thăng làm Bố chính Sơn Tây, hàm Quang lộc tự khanh.

Năm Tân Mão (1891), ông về Hà Nội, làm chủ bút báo Đồng Văn. Năm sau, lại được bổ làm Tuần phủ Thái Bình.

Năm Ất Tỵ (1895), ông làm Tham tri Nha kinh lược Bắc Kỳ, sau đó về triều giữ chức Thượng thư bộ Công kiêm Phó Tổng tài Quốc sử quán. Khi triều đình sửa đổi phép học, phép thi, ông được cử đứng đầu ban Tu thư, cùng với Đoàn Triển, Đỗ Văn Tâm, Bùi Hướng Thành cùng soạn sách Tân giáo khoa.

Năm Canh Tý (1900), ông làm Tổng đốc Bình Phú (Bình Định và Phú Yên), gia hàm Thái tử Thiếu bảo. Vì quê làng Vân Đình nên người đương thời gọi ông là cụ Thiếu Vân Đình.

Khi về hưu, ông được triều đình tặng hàm Hiệp tá Đại học sĩ. Ông về quê nhà, mở trường dạy học.

Năm Canh Thân (1920), ông mất hưởng thọ 69 tuổi, được truy tặng tước Khánh Vân nam.

Tác phẩm

Khác với các tác phẩm của anh mình, vốn được ghi chép và bình luận nhiều dưới thời Pháp thuộc vì có vẻ như "vô thưởng", "vô phạt" (về mặt chính trị) dưới con mắt của nhà kiểm duyệt và các nhà đương cuộc Pháp và Việt Nam; các tác phẩm của Dương Lâm ít được phổ biến hơn, có lẽ vì phần nhiều đề cập trực tiếp hay gián tiếp đến thời kỳ người Pháp xâm lăng Việt Nam và nói lên cảm nghĩ của tác giả về các sự kiện lịch sử ấy, như Dương Quảng Hàm đã nhận xét rất đúng trong quyển Văn học sử yếu, xuất bản năm 1941.(2)

Tác phẩm của ông có "Vân Đình thi văn tập" gồm cả thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm, bộc lộ tư tưởng hưởng lạc, làm "lúc nhàn sau cơn say".

Chú thích
1) Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, mục từ Dương Lâm, tr. 101-102.
2) Tâm trạng Dương Khuê Dương Lâm

18/09/2025

Vì sao các đô thị ở miền Tây thường cách nhau 60km?

 Vì sao các đô thị ở miền Tây thường cách nhau 60km?

Châu Đốc cách Long Xuyên 60km, Long Xuyên cách Cần Thơ 60km, Cần Thơ cách Sóc Trăng 60km, Sóc Trăng cách Bạc Liêu gần 60km và Bạc Liêu lại cách Cà Mau cũng khoảng 60km.


Các đô thị ở Đồng bằng sông Cửu Long đa phần có một điểm chung là thường cách nhau với khoảng cách địa lý 60km. Do đâu có sự trùng hợp kỳ lạ này

05/09/2025

Tôi Đi Học-Thanh Tịnh

▬▬▬▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬▬▬▬
----Tôi Đi Học-Thanh Tịnh-------
▬▬▬▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬▬▬▬

🌷Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quí và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa.
Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.
Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chìa ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước có sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
- Mẹ đưa bút thước cho con cầm.
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
- Thôi để mẹ nắm cũng được.
Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước.
Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.
Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa.
Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.
Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.
Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.
Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nửa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.
Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.
Ông Đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:
- Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa ? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ ran của phụ huynh đáp lại.)
Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.
Ông Đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:
- Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.
Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cánh tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi.
Ông Đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.
- Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.
Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có những hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.
Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật.
Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.
Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi.
Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật.
Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc:
Bài tập viết : Tôi đi học !
THANH TỊNH

Tựu trường - Huy Cận--

══════---------══════

--------"Tựu trường" - Huy Cận----------
══════---------══════

Giờ náo nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương
Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Rương nhỏ nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Sắp hạnh phúc như chương trình lớp học
Buổi chiều đầu, họ tìm bạn kết duyên
Trong sân trường hướng dạo giữa Đào viên
Quần áo trắng đẹp như lòng mới mẻ.
Chân non dại ngập ngừng từng bước nhẹ
Tim run run trăm tình cảm rụt rè
Tuổi mười lăm gấp sách lại, đứng nghe
Lòng mới mở giữa tay đời ấm áp.
Tựu trường đó, lòng tôi vừa bắt gặp
Nỗi xôn xao thầm lặng ở trong rương
Của chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Mắt tin cậy và tóc vừa dưỡng rẽ
Người bạn nhỏ! Cho lòng tôi theo ghé
Không nỗi gì có thể vuốt ve hơn
Đêm tựu trường mùi cửa sổ mới sơn
Tủ mới đánh và lòng trai thơm ngát





Hơn một nửa thế kỷ đã trôi qua. Khi làm bài thơ này tác giả tóc hãy còn xanh lắm, đến bây giờ dù đã bước quá sang tuổi "xưa nay hiếm" nhưng chắc hẳn những giờ phút xôn xao của ngày tựu trường năm ấy vẫn còn nguyên những kỷ niệm của tuổi mười lăm.
"Tựu trường", cả bài thơ là cả một mạch cảm xúc náo nức của tuổi học trò trong ngày đầu nhập học. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, không suy tư, không triết lý nhưng lại có sức liên tưởng và sức gợi mở rất rộng. Đọc bài thơ, ta cảm được nỗi niềm hạnh phúc và phấn kích của những chàng trai trẻ tuổi mười lăm trước buổi khai trường. Chính họ đã thốt lên nỗi niềm đó với những vật là vô tri nhất: "Giờ náo nức của một thời trẻ dại/ Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương"... Vâng, dù ngói nâu, tường trắng, cửa gương.. những vật tưởng chừng như vô tri đó, bắt đầu của ngày tựu trường này sẽ trở thành một phần trong ký ức của tuổi học trò. Những hình ảnh về chúng chắc hẳn sẽ ở lại mãi mãi giữa tâm hồn của những chàng trai tuổi mười lăm thuở ấy. Nhà thơ Huy Cận đã từng hồi ức về bài thơ "Tựu trường" như thế này:
"Bài thơ Tựu trường tôi làm lúc 19 tuổi, lúc đó tôi đang học năm thứ hai ban tú tài Trường Quốc Học Huế (1938), bài thơ là khoảng hồi ức nhớ lại tuổi mười lăm của mình trong ngày tựu trường. Tôi rất tha thiết với đời sống học sinh nội trú của Trường Quốc Học. Ngày khai trường, không khí chung náo nức và mới mẻ. Tủ đựng quần áo, sách vở của học sinh được đánh vecni lại. Trường được sơn cửa, quét vôi, toả hương dễ chịu. Sân trường rất rộng, những bụi tre ngà, những cây phượng vĩ rung rinh như chào đón chúng tôi. Tôi nhớ đến tình bạn của chúng tôi trong trường. Một tình bạn rất lý tưởng, thơ mộng. Tình bạn học, tình văn chương, tình đời... chắp cánh cho những ước mơ. Tựu trường nói đến tình bạn học, tuổi thơ non dại, mở ra một cuộc đời lý tưởng trong nhịp điệu thơ như bước chân của người học trò..."
Vậy đó, những tâm hồn thơm tho lung linh ánh ngọc. Trước một năm học mới và trước cả ngưỡng cửa cuộc đời, những người học trò ấy hoàn toàn thanh thản trong tâm thế tự tin ngây ngất và trong nỗi xôn xao thầm lặng của tuổi mười lăm:
Tựu trường đó, lòng tôi vừa bắt gặp
Nỗi xôn xao thầm lặng ở trong rương
Của chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Mắt tin cậy và tóc vừa dưỡng rẽ
Hơn sáu mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Tựu trường ra đời, thế mà những chút tình cảm rụt rè của những con tim run run thuở ấy, đang giúp những người đọc qua nhiều thế hệ, sống lại với những kỷ niệm của riêng mình. Và phải chăng, chính vì lẽ đó mà bài thơ Tựu trường của nhà thơ Huy Cận sẽ còn luôn sống mãi với thời gian?!.
(Vân Anh- Báo TTHuế )
Painting's Xuan Loc